Bỉ

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm
Vương quốc Bỉ
Royaume de Belgique  (tiếng Pháp)
Koninkrijk België  (tiếng Hà Lan)
Königreich Belgien  (tiếng Đức)
Flag of Belgium.svg Great coat of arms of Belgium.svg
Quốc kỳ Huy hiệu
Vị trí của Bỉ
Khẩu hiệu
Tiếng Hà Lan: Eendracht maakt macht
Tiếng Pháp: L'union fait la force
Tiếng Đức: Einigkeit gibt Stärke
("Đoàn kết gây sức mạnh")
Quốc ca
Brabançonne
Hành chính
Chính phủ Quân chủ lập hiến
Vua Philippe
Thủ tướng Charles Michel
Ngôn ngữ chính thức Tiếng Hà Lan, tiếng Pháptiếng Đức
Thủ đô Brussel/Bruxelles
50°54′B, 4°32′Đ
Thành phố lớn nhất Brussel/Bruxelles
Địa lý
Diện tích 30.528 km² (hạng 148)
Diện tích nước 6,4% %
Múi giờ CET (UTC+1); mùa hè: CEST (UTC+2)
Lịch sử
Từ Hà Lan
Ngày 4 tháng 10 năm 1830
• Tuyên bố
Ngày 20 tháng 12 năm 1830 • Công nhận trên thực tế
Ngày 20 tháng 12 năm 1830 • Công nhận về pháp lý
Ngày 21 tháng 07 năm 1831[1] • Quốc khánh
Ngày 19 tháng 4 năm 1839 • Tách 2 vương quốc với Hà Lan
Dân cư
Dân số ước lượng (2005) 10.445.852 người (hạng 79)
Dân số (2005) 10.445.852 người (hạng 79)
Mật độ 342 người/km² (hạng 17)
Kinh tế
GDP (PPP) (2004) Tổng số: 316,2 tỷ USD
HDI (2003) 0,945 cao (hạng 9)
Đơn vị tiền tệ Euro ¹ (EUR)
Thông tin khác
Tên miền Internet .be
¹ Trước năm 1999Franc Bỉ.
Bỉ

Bỉ (tiếng Hà Lan: België, tiếng Pháp: Belgique; tiếng Đức: Belgien), quốc danh hiện tại là Vương quốc Bỉ (tiếng Hà Lan: Koninkrijk België; tiếng Pháp: Royaume de Belgique; tiếng Đức: Königreich Belgien), là một quốc gia tại Tây Âu. Nước này là một thành viên sáng lập của Liên minh châu Âu và cũng là nơi đóng trụ sở của tổ chức này, cũng như nhiều tổ chức quốc tế lớn khác, gồm cả NATO.[2] Bỉ có diện tích 30.528km2 và dân số khoảng 10.7 triệu người.

Là biên giới văn hoá giữa châu Âu Germanchâu Âu Latinh, Bỉ là ngôi nhà của hai nhóm ngôn ngữ chính, Flemishngười nói tiếng Pháp, chủ yếu là Walloons, cộng với một nhóm nhỏ người nói tiếng Đức. Hai vùng lớn nhất của Bỉ là vùng nói tiếng Hà Lan Flanders ở phía bắc, với 59% dân số, và vùng nói tiếng Pháp ở phía nam là Wallonia, với 41% dân số. Vùng thủ đô Brussels, có hai ngôn ngữ chính thức, là vùng chủ yếu nói tiếng Pháp gồm trong Vùng Flemish và là nơi sinh sống của 10% dân số.[3] Một Cộng đồng nói tiếng Đức có tồn tại ở đông Wallonia.[4] Sự đa dạng ngôn ngữ của Bỉ và những cuộc xung đột chính trị và văn hoá liên quan tới nó được phản ánh trong lịch sử chính trị và một hệ thống chính phủ phức tạp.[5][6]

Về mặt lịch sử, Bỉ Hà LanLuxembourg được gọi là Các nước vùng thấp, thường để chỉ một vùng hơi rộng hơn nhóm quốc gia Benelux hiện tại. Từ cuối thời kỳ Trung Cổ cho tới thế kỷ 17, đây là một trung tâm văn hoá và thương mại thịnh vượng. Từ thế kỷ 16 tới cuộc Cách mạng Bỉ năm 1830, nhiều trận đánh giữa các cường quốc châu Âu đã diễn ra tại khu vực Bỉ, khiến nó bị gọi là vùng đất chiến trận của châu Âu[7]—một danh tiếng càng trở nên nổi bật hơn sau hai cuộc Thế chiến. Ngay khi giành được độc lập Bỉ lập tức tham gia vào cuộc Cách mạng công nghiệp[8][9] và, ở cuối thế kỷ 19, sở hữu nhiều thuộc địa ở châu Phi.[10] Nửa sau thế kỷ 20 được ghi dấu bởi sự trỗi dậy của những cuộc xung đột cộng đồng giữa người Flemings và Francophone được tiếp sức thêm bởi những sự khác biệt văn hoá ở một khía cạnh và khía cạnh kia là sự phát triển kinh tế không đồng đều của Flanders và Wallonia. Đây là những cuộc xung đột vẫn còn sôi sục và đã dẫn tới nhiều đề xuất cải cách từ một nhà nước Bỉ đơn nhất thành một nhà nước liên bang.

Nguồn gốc quốc hiệu[sửa | sửa mã nguồn]

Danh xưng "Bỉ" trong tiếng Việt là giản xưng của Bỉ Lợi Thời (Trung văn giản thể: 比利时; Trung văn phồn thể: 比利時; bính âm: Bǐlìshí), dịch danh Trung văn của quốc hiệu nước Bỉ.

Quốc hiệu nước Bỉ (tiếng Hà Lan: België, tiếng Pháp: Belgique; tiếng Đức: Belgien) bắt nguồn từ Gallia Belgica, tên gọi của một Tỉnh La Mã ở phần cực bắc của Gaul nơi người Belgae, một sự pha trộn giữa người CelticGermanic, sinh sống.[11][12]

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Lịch sử Bỉ
Mười bảy tỉnh (vùng cam, nâu và vàng) và Địa phận Giám mục Liège (xanh)

Ở thế kỷ thứ 1 trước Công Nguyên, người La Mã, sau khi đánh bại các bộ tộc địa phương, đã thành lập tỉnh Gallia Belgica. Một cuộc nhập cư dần dần của các bộ tộc Frankish Germanic trong thế kỷ thứ 5, đã đưa vùng này nằm dưới sự cai trị của các vị vua Merovingian. Một sự dần thay đổi quyền lực trong thế kỷ thứ 8 đã khiến vương quốc của người Franks phát triển thành Đế chế Carolingian. Hiệp ước Verdun năm 843 phân chia vùng này thành TrungTây Francia và vì thế trở thành một tập hợp các thái ấp ở các mức độ độc lập khác nhau, và trong thời Trung Cổ các thái ấp này hoặc là chư hầu của Vua Pháp hoặc là của Hoàng đế La Mã Thần thánh. Nhiều thái ấp trong số đó đã được thống nhất vào bên trong Burgundian Hà Lan ở thế kỷ 14 và 15. Hoàng đế V đã mở rộng liên minh riêng tư của Mười bảy tỉnh trong những năm 1540, biến nó trở thành không chỉ là một liên minh riêng tư theo Sắc lệnh 1549 và gia tăng ảnh hưởng của ông với Địa phận Giám mục-Hoàng thân Liège.[13]

Cuộc chiến tranh tám mươi năm (1568–1648) đã chia các quốc gia vùng thấp thành Các tỉnh thống nhất (Belgica Foederata trong tiếng Latinh, "Liên bang Hà Lan") ở phía bắc và Nam Hà Lan (Belgica Regia, "Hoàng gia Hà Lan"). Nam Hà Lan nằm dưới sự cai trị liên tục của người Tây Ban NhaÁo Habsburg và bao gồm hầu hết nước Bỉ hiện đại. Đây là sân khấu của hầu hết các cuộc chiến tranh Pháp-Tây Ban NhaPháp-Áo trong thế kỷ 17 và 18.[14] Sau các chiến dịch năm 1794 trong các cuộc chiến tranh cách mạng Pháp, các quốc gia vùng thấp—gồm cả các lãnh thổ chưa bao giờ chính thức nằm dưới sự cai trị của Habsburg, như Địa phận Giám mục-Hoàng thân Liège—bị Đệ nhất Cộng hoà Pháp sáp nhập, chấm dứt thời kỳ cai trị của Áo trong vùng. Sự thống nhất các quốc gia vùng thấp trở thành Vương quốc Hà Lan Thống nhất diễn ra sau sự giải tán của Đệ nhất Đế chế Pháp năm 1815.

Cuộc cách mạng Bỉ năm 1830 dẫn tới sự thành lập một nhà nước Bỉ độc lập, Cơ đốc và trung lập dưới một chính phủ lâm thời và một nghị viện quốc gia. Từ khi Leopold I được lập lên làm vua ngày 21 tháng 7 năm 1831, Bỉ đã trở thành một nhà nước quân chủ lập hiếndân chủ nghị viện. Dù ban đầu quyền bầu cử bị giới hạn, quyền phổ thông đầu phiếu cho nam giới được ban hành năm 1893 (với việc bỏ phiếu theo khu vực cho tới năm 1919) và cho phụ nữ năm 1949. Các đảng chính trị lớn ở thế kỷ 19 là Đảng Cơ đốcĐảng Tự do, với Đảng Lao động Bỉ xuất hiện ở cuối thế kỷ. Tiếng Pháp ban đầu là ngôn ngữ chính thức duy nhất được giới quý tộctư sản lựa chọn. Nó dần mất đi tầm quan trọng khi tiếng Hà Lan cũng được công nhận. Sự công nhận này trở thành chính thức năm 1898 và vào năm 1967 một phiên bản Hiến pháp tiếng Hà Lan được chính thức công nhận.[15]

Hội nghị Berlin năm 1885 trao quyền kiểm soát Nhà nước Congo Tự do cho Vua Leopold II như vật sở hữu cá nhân của ông. Từ khoảng năm 1900 có sự lo ngại quốc tế ngày càng gia tăng về cách đối xử cực đoan và dã man với dân chúng Congo của chính quyền Leopold II, với ông ta Congo là nguồn thu chủ yếu từ ngà voi và sản xuất cao su. Năm 1908 sự phản đối này khiến nhà nước Bỉ phải nắm trách nhiệm quản lý chính phủ thuộc địa, vì thế nó được gọi là Congo Bỉ.[16]

Đức xâm lược Bỉ năm 1914 như một phần của Kế hoạch Schlieffen và hầu hết các trận đánh tại Mặt trận phía Tây trong Thế chiến I diễn ra ở vùng phía tây nước này. Bỉ chiếm các thuộc địa của ĐứcRuanda-Urundi (RwandaBurundi hiện nay) trong cuộc chiến và vào năm 1924 chúng được Hội quốc liên uỷ nhiệm cho Bỉ. Sau cuộc Thế chiến thứ nhất, Các quận Phổ Eupen và Malmedy bị Bỉ sáp nhập năm 1925, vì thế dẫn tới sự xuất hiện của một cộng đồng nói tiếng Đức. Nước này một lần nữa bị Đức xâm lược năm 1940 trong cuộc tấn công Blitzkrieg và bị chiếm đóng cho tới khi đoợc giải phóng năm 1945 bởi Đồng Minh. Congo Bỉ giành được độc lập năm 1960 trong cuộc Khủng hoảng Congo;[17] Ruanda-Urundi tiếp nối hai năm sau đó.

Sau Thế chiến II, Bỉ gia nhập NATO với tư cách một thành viên sáng lập và thành lập nhóm quốc gia Benelux với Hà LanLuxembourg. Bỉ trở thành một trong sáu thành viên sáng lập Cộng đồng Than và Thép châu Âu năm 1951 và của Cộng đồng Năng lượng Nguyên tử châu ÂuCộng đồng Kinh tế châu Âu, được thành lập năm 1957. Cộng đồng Kinh tế châu Âu hiện là Liên minh châu Âu, và Bỉ là nơi đóng trụ sở của các định chế và cơ cấu chính của tổ chức này, gồm Hội đồng châu Âu, Hội đồng Liên minh châu Âu và cũng là nơi tổ chức các kỳ họp thông thường và đặc biệt của Nghị viện châu Âu.

Chính phủ và chính trị[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Chính trị Bỉ

Bỉ là một quốc gia quân chủ nhân dân, lập hiếndân chủ nghị viện.

Cựu Thủ tướng Herman Van Rompuy

Nghị viện liên bang lưỡng viện gồm Thượng viện và một Viện đại biểu. Thượng viện gồm 40 chính trị gia được bầu trực tiếp và 21 đại diện do 3 nghị viện cộng đồng chỉ định, 10 thượng nghị sĩ đồng lựa chọn và các con của nhà vua, là thượng nghị sĩ theo quyền những người trên thực tế không bỏ phiếu. 150 thành viên của Viện đại biểu được bầu theo hệ thống bầu cử tỷ lệ từ 11 quận bầu cử. Bỉ là một trong số ít quốc gia áp dụng bỏ phiếu bắt buộc và vì thế có một trong những tỷ lệ cử tri đi bỏ phiếu cao nhất thế giới.[18]

Vua (hiện tại là Philippe) là nguyên thủ quốc gia, dù có đặc quyền hạn chế. Vua chỉ định các bộ trưởng, gồm cả một Thủ tướng, và phải được Viện đại biểu tín nhiệm để lập chính phủ liên bang. Số lượng các bộ trưởng nói tiếng Hà Lan và tiếng Pháp là tương đương như được ghi trong hiến pháp.[19] Hệ thống tư pháp dựa trên luật dân sự và có nguồn gốc từ luật Napoleon. Toà phá án là cơ quan tối cao, với Toà phúc thẩm ở mức thấp hơn.

Các định chế chính trị của Bỉ rất phức tạp, hầu hết quyền lực chính trị được tổ chức xung quanh nhu cầu đại diện cho các cộng đồng văn hoá. Từ khoảng năm 1970, các đảng chính trị quốc gia quan trọng của Bỉ đã chia rẽ thành các thành phần riêng biệt chủ yếu đại diện cho các lợi ích chính trị và ngôn ngữ của các cộng đồng. Các đảng chính trong mỗi cộng đồng, dù gần gũi với phái chính trị trung dung, thuộc ba nhóm chính: phe tự do cánh hữu, phe Dân chủ Thiên chúa giáo xã hội bảo thủnhững người xã hội hình thành nên cánh tả. Các đảng đáng chú ý khác bắt đầu phát triển từ nửa sau thế kỷ 20, chủ yếu quanh các chủ đề ngôn ngữ, quốc gia, hay môi trường và gần đây là các đảng nhỏ hơn đi theo một số ý tưởng tự do riêng biệt.

Một loạt các liên minh chính phủ Dân chủ Thiên chúa giáo từ năm 1958 đã bị tan vỡ sau cuộc bầu cử năm 1999 sau cuộc khủng hoảng dioxine đầu tiên, một scandal nhiễm độc thức ăn lớn.[20][21] Một 'liên minh cầu vồng' gồm sáu đảng xuất hiện: phái Tự do nói tiếng Flemish và tiếng Pháp, những người Dân chủ Xã hội, Đảng Xanh.[22] Sau này, một 'liên minh tía' của những người Tự do và Dân chủ Xã hội được thành lập sau khi Đảng Xanh mất ghế trong cuộc bầu cử năm 2003.[23] Chính phủ dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng Guy Verhofstadt từ năm 1999 tới năm 2007 đã thành công trong việc cân bằng ngân sách, thực hiện một số cải cách thuế, và cải cách thị trường lao động, lên kế hoạch loại bỏ hạt nhân và đưa ra khung pháp lý cho phép việc truy tố nghiêm khắc hơn với tội phạm chiến tranh và khoan dung hơn với việc sử dụng các chất ma tuý loại nhẹ. Những giới hạn về cản trở cái chết không đau đớn được giảm bớt hôn nhân đồng giới được hợp pháp hoá. Chính phủ khuyến khích tăng cường ngoại giao ở châu Phi[24] và opposed the invasion of Iraq.[25] Liên minh của Verhofstadt có kết quả tồi trong cuộc bầu cử tháng 6 năm 2007. Trong hơn một năm, nước này đã trải qua một cuộc khủng hoảng chính trị.[26] Cuộc khủng hoảng này tồi tệ tới mức nhiều nhà quan sát đã dự đoán một khả năng phân chia nước Bỉ. Từ ngày 21 tháng 12 năm 2007 tới ngày 20 tháng 3 năm 2008 Chính phủ tạm quyền Verhofstadt III đảm đương chức vụ. Liên minh này của những người Flemishnhững người Dân chủ Thiên chúa giáo Francophone, Flemishnhững người Tự do Francophone cùng với những người Dân chủ Xã hội Francophone là chính phủ tạm quyền cho tới ngày 20 tháng 3 năm 2008. Vào ngày này một chính phủ mới, dưới sự lãnh đạo của Yves Leterme Dân chủ Thiên chúa giáo Flemish, phe giành thắng lợi trong cuộc bầu cử liên bang tháng 6 năm 2007, tuyên thệ nhậm chức trước nhà vua. Ngày 15 tháng 7 năm 2008 Leterme thông báo việc từ chức của nội các tới nhà vua, và không có tiến bộ nào trong việc cải cách hiến pháp được thực hiện.[27] Tháng 12 năm 2008 một lần nữa ông đệ đơn từ chức tới nhà vua sau một cuộc khủng hoảng liên quan tới việc bán Fortis cho BNP Paribas.[28] Trước tình hình này, đơn từ chức của ông đã được chấp nhận và Herman Van Rompuy thuộc phe Dân củ Thiên chúa giáo Flemish tuyên thệ nhậm chức Thủ tướng ngày 30 tháng 12 năm 2008.[29]

Trong bảng xếp hạng Chỉ số tự do báo chí thế giới năm 2007, tổ chức Phóng viên không biên giới xếp Bỉ (cùng với Phần LanThuỵ Điển) đứng hạng 5 trong 169 nước.[30]

Các cộng đồng và các vùng[sửa | sửa mã nguồn]

Các cộng đồng:
  Cộng đồng Flemish / khu vực tiếng Hà Lan
Cộng đồng Flemish & tiếng Pháp/ khu vực song ngữ
  Cộng đồng Pháp / khu vực tiếng Pháp
  Cộng đồng nói tiếng Đức / khu vực tiếng Đức
Các vùng:
  Vùng Flemish / Khu vực tiếng Hà Lan
  Vùng thủ đô Brussels / khu vực song ngữ
  Vùng Walloon / các khu vực tiếng Pháp và tiếng Đức

Sau một sự sử dụng có thể truy nguyên từ thời các toà án Burgundian và Habsburgian,[31] ở thế kỷ 19 cần phải nói tiếng Pháp để có thể thuộc về tầng lớp trên cầm quyền và những người chỉ có thể nóitiếng Hà Lan thực tế là các công dân hạng hai. Cuối thế kỷ 19, và tiếp tục tới thế kỷ 20, các phong trào Flemish xuất hiện phản đối tình hình này. Tuy Walloons và hầu hết dân cư Brussels chấp nhận tiếng Pháp như ngôn ngữ thứ nhất, Flemings khước từ và đã thành công trong việc đưa tiếng Hà Lan trở thành ngôn ngữ chính thức của Flanders. Sau thế chiến II, chính trị Bỉ dần bị thống trị bởi sự tự quản của hai cộng đồng ngôn ngữ chính của nó. Những căng thẳng giữa các sắc tộc gia tăng và hiến pháp đã được sửa đổi để ngăn chặn bất kỳ nguy cơ xung đột nào.

Dựa trên bốn vùng ngôn ngữ được xác định năm 1962–63 (vùng tiếng Hà Lan, song ngữ, tiếng Pháp và tiếng Đức), những lần sửa đổi liên tục của hiến pháp nhà nước năm 1970, 1980, 1988 và 1993 đã thiết lập một nhà nước liên bang đơn nhất với quyền lực chính trị được phân chia thành ba cấp[32][33]:

  1. Chính phủ liên bang, có trụ sở tại Brussels.
  2. Ba cộng đồng ngôn ngữ:
  3. Ba vùng:

Phần quy định về ngôn ngữ trong hiến pháp xác định các ngôn ngữ chính thức được sử dụng trong các vùng, cũng như các giới hạn địa lý của các định chế có quyền về các vấn đề riêng biệt. Dù điều này sẽ cho phép bảy nghị viện và chính phủ, khi các Cộng đồng và các Vùng được thành lập năm 1980, các chính trị gia Flemish quyết định sáp nhập cả hai. Vì thế Flemings chỉ có một cơ quan nghị viện và chính phủ duy nhất có quyền lực với mọi vấn để riêng biệt của địa phương ngoại trừ với các vấn đề liên bang.[34] Các biên giới chồng lấn của các Vùng và các Cộng đồng đã tạo ra hai thứ lập dị: lãnh thổ Vùng thủ đô Brussels (đã tổn tại từ sau các vùng khác khoảng gần một thập kỷ) được gồm trong cả các Cộng đồng Flemish và Pháp, và lãnh thổ Cộng đồng nói tiếng Đức nằm toàn bộ bên trong Vùng Walloon. Những xung đột giữa các cơ cấu được giải quyết tại Toà án Hiến pháp Bỉ. Cơ cấu này được dự định trở thành một thiết chế hoà giải để cho phép các nền văn hoá khác nhau cùng chung sống hoà bình.[8]

Cơ quan chính quyền liên bang gồm tư pháp, quốc phòng và cảnh sát liên bang, an ninh xã hội, năng lượng nguyên tử, chính sách tiền tệ, nợ công và các mặt khác của tài chính công. Các công ty thuộc sở hữu nhà nước gồm Belgian Post GroupĐường sắt Bỉ. Chính phủ liên bang chịu trách nhiệm về các trách nhiệm của Bỉ và các định chế liên bang của nó với Liên minh châu Âu và NATO. Chính phủ liên bang kiểm soát phần lớn lĩnh vực chăm sóc y tế, nhà ở và đối ngoại.[35] Ngân sách –không tính nợ- được kiểm soát bởi chính phủ liên bang chiếm tới 50% thu nhập thuế quốc gia. Chính phủ liên bang sử dụng khoảng 12% nhân viên dân sự.[36]

Các cộng đồng chỉ có quyền trong khu vực địa lý ngôn ngữ đã được xác định, ban đầu hướng tới các cá nhân của một cộng đồng ngôn ngữ: văn hoá (gồm cả truyền thông), giáo dục và sử dụng ngôn ngữ liên quan. Những vấn đề mở rộng của cá nhân không liên quan trực tiếp tới ngôn ngữ gồm chính sách y tế (chăm sóc và ngăn ngừa) và hỗ trợ cá nhân (bảo vệ trẻ em, an sinh xã hội, trợ giúp gia đình, dịch vụ hỗ trợ người nhập cư, vân vân).[37]

Các vùng chỉ có quyền trong các lĩnh vực liên quan chặt chẽ tới lãnh thổ của họ. Chúng gồm kinh tế, việc làm, nông nghiệp, chính sách sử dụng nước, nhà ở, công trình công cộng, năng lượng, vận tải, môi trường, quy hoạch thị trấn và nông thôn, bảo vệ thiên nhiên, tín dụng và thương mại nước ngoài. Họ giám sát các tỉnh, khu đô thị và các công ty liên cộng đồng.[37]

Trong nhiều lĩnh vực, mỗi cộng đồng có nhiều mức độ tiếp cận khác nhau với vấn đề riêng biệt của họ. Ví dụ, về giáo dục, quyền của các Cộng đồng không bao gồm việc đưa ra quyết định về tính chất bắt buộc cũng không được phép đặt ra các yêu cầu tối thiểu về chất lượng, đây là những vấn đề thuộc liên bang.[35] Mỗi cấp độ chính phủ có thể tham gia vào nghiên cứu khoa học và quan hệ quốc tế gắn liền với quyền lực của nó.[38][38] The treaty-making power of the Region's and Communities' Governments is the broadest of all the Federating units of all the Federations all over the world.[39][40][41]

Địa lý, khí hậu và môi trường[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Địa lý Bỉ
Những dải đất lấn biển dọc theo sông Yser

Bỉ có chung biên giới với Pháp (620 km), Đức (167 km), Luxembourg (148 km) và Hà Lan (450 km). Tổng diện tích nước này, gồm cả diện tích mặt nước, Là 33.990 kilômét vuông; diện tích đất liền riêng là 30.528 km2. Bỉ có ba vùng địa lý chính: đồng bằng ven biển ở phía tây bắc và cao nguyên trung tâm đều thuộc về Châu thổ Anglo-Belgian; các vùng đất cao Ardennes ở phía đông nam là một phần của vành đai kiến tạo Hercynian. Châu thổ Paris chiếm một phần tư diện tích mũi cực nam nhỏ của Bỉ, Lorraine Bỉ.[42]

Đồng bằng ven biển chủ yếu gồm các đụn cát và đất lấn biển. Sâu hơn phía trong lục địa là vùng đất cao dần lên được tưới tiêu bởi nhiều kênh lạch, với các thung lũng màu mỡ và đồng bằng cát phía đông bắc của Campine (Kempen). Những quả đồi nhiều cây và các cao nguyên Ardennes gồ ghề và nhiều đá hơn với những hang động và các hẻm núi nhỏ, và là nơi sinh sống của hầu hết các loài sinh vật hoang dã của Bỉ nhưng ít có giá trị nông nghiệp. Kéo dài về phía tây tới Pháp, vùng này kết nối ở phía đông với Eifel tại Đức nhờ cao nguyên High Fens, tại đây Signal de Botrange là đỉnh cao nhất nước ở độ cao 694 mét (2.277 ft).[43][44]

Phong cảnh cây cối tại Ardennes

Khí hậu kiểu đại dương ôn hoà, với lượng mưa khá lớn trong mọi mùa (Xếp hạng khí hậu Köppen: Cfb). Nhiệt độ trung bình thấp nhất vào tháng 1 ở mức 3 °C (37,4 °F) và cao nhất vào tháng 7 ở mức 18 °C (64,4 °F). Lượng mưa trung bình tháng thay đổi trong khoảng 54 milimét (2,1 in) vào tháng 2 hay tháng 4 tới 78 mm (3,1 in) vào tháng 7.[45] Mức trung bình năm giai đoạn 2000 tới 2006 nhiệt độ tối thiểu ban ngày đạt 7 °C (44,6 °F) và tối đa 14 °C (57,2 °F) và lượng mưa hàng tháng 74 mm (2,9 in); tăng khỏng 1 °C và gần 10 so với các giá trị thông thường ở thế kỷ trước.[46]

Về địa lý thực vật, Bỉ nằm giữa các khu vực châu Âu Đại Tây Dương và Trung Âu của Vùng quanh Boreal bên trong Giới Boreal.[47] Theo WWF, lãnh thổ Bỉ thuộc vùng sinh thái Đại Tây Dương với rừng pha trộn.[48]

Vì có mật độ dân số cao, vị trí ở trung tâm Tây Âu và những nỗ lực chính trị không đủ, Bỉ phải đối mặt với nhiều vấn đề môi trường nghiêm trọng. Một báo cáo năm 2003 cho thấy lượng nước tự nhiên của Bỉ (các con sông và nước ngầm) có chất lượng thấp nhất trong số 122 quốc gia được nghiên cứu.[49] Trong Chỉ số Thực hành Môi trường thí điểm năm 2006, Bỉ đạt 75.9% về tổng thực hành môi trường và được xếp hạng thấp nhất trong số các quốc gia thành viên Liên minh châu Âu, dù vẫn đứng thứ 39 trên 133 nước.[50]

Kinh tế[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Kinh tế Bỉ
Sản xuất thép dọc theo sông Meuse tại Ougrée, gần Liège

Bỉ có nền kinh tế toàn cầu hoá mạnh[51]cơ sở hạ tầng vận tải của nước này được kết nối với toàn bộ châu Âu. Vị trí ở trung tâm một khu vực công nghiệp hoá cao khiến nước này trở thành quốc gia đứng hạng 15 thế giới về thương mại năm 2007.[52][53] Nền kinh tế có đặc trưng ở nguồn nhân lực có khả năng sản xuất cao, GNP cao và xuất khẩu trên đầu người cao.[54] Các mặt hàng nhập khẩu chính của Bỉ là thực phẩm, máy, kim cương thô, dầu mỏ và các sản phẩm hoá dầu, hoá chất, vải vóc và phụ kiện và hàng dệt may. Các sản phẩm xuất khẩu chính gồm ô tô, sản thực phẩm, sắt và thép, kim cương đã gia công, dệt may, nhựa, sản phẩm hoá dầu và các kim loại phi kim. Kinh tế Bỉ hướng mạnh tới dịch vụ và có bản chất kép: một nền kinh tế Flemish năng động và một nền kinh tế Walloon ỳ ạch phía sau.[8][55] Là một trong những thành viên sáng lập Liên minh châu Âu, Bỉ hỗ trợ mạnh mẽ một nền kinh tế mở và sự mở rộng các quyền lực của các định chế EU để tích hợp các nền kinh tế của các quốc gia thành viên. Từ năm 1922, Bỉ và Luxembourg đã là một thị trường duy nhất về thuế quantiền tệ: Liên minh Kinh tế Bỉ-Luxembourg.

Bỉ là quốc gia đầu tiên ở lục địa châu Âu trải qua cuộc Cách mạng công nghiệp, đầu những năm 1800.[56] LiègeCharleroi nhanh chóng phát triển công nghiệp mỏ và sản xuất thép, và nó phát triển mạnh cho tới tận giữa thế kỷ 20 tại thung lũng SambreMeuse, sillon industriel và biến Bỉ trở thành một trong những quốc gia công nghiệp hoá nhất thế giới từ năm 1830 tới năm 1910.[57] Tuy nhiên, tới những năm 1840 ngành công nghiệp dệt của Flanders rơi vào cuộc khủng hoảng nặng nề và vùng này gặp nạn đói trong khoảng thời gian 1846–50.

Sau Thế chiến II, GhentAntwerp trải qua một giai đoạn phát triểm mạnh mẽ của các ngành công nghiệp hoá chất và hoá dầu. Các cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973năm 1979 khiến nền kinh tế rơi vào giảm phát; nó đặc biệt kéo dài tại Wallonia, nơi ngành công nghiệp thép đã trở nên kém cạnh tranh và sụt giảm mạnh.[58] Trong thập niên 1980 và 90, trung tâm kinh tế của đất nước tiếp tục chuyển về phía bắc và hiện tập trung tại vùng Flemish Diamond đông đúc.[59]

Tới cuối thập niên 1980, các chính sách kinh tế vi mô của Bỉ đã dẫn tới đỉnh cao nợ chính phủ lên tới khoảng 120% GDP. Tới năm 2006, ngân sách đã cân bằng và nợ công tương đương 90.30% GDP.[60] Năm 2005 và 2006, tăng trưởng GDP thực ở mức 1.5% và 3.0%, hơi lớn hơn mức trung bình của khu vực đồng Euro. Tỷ lệ thất nghiệp là 8.4% năm 2005 và 8.2% năm 2006 cũng gần ở mức trung bình.[61]

Từ năm 1832 tới năm 2002, đồng tiền tệ của Bỉ là franc Bỉ. Bỉ đã chuyển sang dùng đồng euro năm 2002, với bộ tiền xu đầu tiên được đúc năm 1999. Tuy những đồng xu euro Bỉ tiêu chuẩn được thiết kế để đưa vào lưu thông có chân dung Vua Albert II, điều này không xảy ra với các đồng xu kỷ niệm, nơi các thiết kế được lựa chọn tự do.

Nhân khẩu[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Demographics of Belgium
Các khu vực và địa điểm chính tại Bỉ

Đầu năm 2007 gần 92% dân chúng Bỉ là công dân Bỉ, và khoảng 6% là công dân của các quốc gia thành viên khác của Liên minh châu Âu. Những sắc tộc chủ yếu là người Italia (171.918), người Pháp (125.061), người Hà Lan (116.970), người Marốc (80.579), người Tây Ban Nha (42.765), người Thổ (39.419) và người Đức (37.621).[62][63]

Đô thị hoá[sửa | sửa mã nguồn]

Brussels, thủ đô của Bỉ và là khu đô thị lớn nhất nước.

Hầu như toàn bộ người Bỉ sống tại đô thị—97% năm 2004.[64] Mật độ dân số Bỉ là 342 trên một kilômét vuông (886 trên dặm vuông)—một trong những mức cao nhất châu Âu, sau Hà Lan và một số tiểu quốc như Monaco. Vùng có mật độ cao nhất là Flemish Diamond, được bao xung quanh bởi vành đai AntwerpLeuvenBrusselsGhent. Ardennes có mật độ dân số thấp nhất. Ở thời điểm năm 2006, Vùng Flemish có dân số khoảng 6.078.600, người với Antwerp (457.749), Ghent (230.951) và Bruges (117.251) các thành phố đông dân nhất; Wallonia có 3.413.978 người, Charleroi (201.373), Liège (185.574) và Namur (107.178). Brussels là nơi sinh sống của 1.018.804 người trong 19 khu đô thị của nó, hai khu có dân số trên 100.000 người.[65]

Ngôn ngữ[sửa | sửa mã nguồn]

Các ngôn ngữ chính thức:
  tiếng Hà Lan (~59%)
  tiếng Pháp (~40%)
  tiếng Đức (~1%)

Bỉ có ba ngôn ngữ chính thức, xếp theo thứ tự từ lớn xuống nhỏ theo số người sử dụng là tiếng Hà Lan, tiếng Pháptiếng Đức. Một số thứ tiếng không chính thức của các cộng đồng nhỏ cũng được sử dụng.

Vì không có cuộc điều tra dân số nào, không có dữ liệu thống kê chính thức về phân bố hay sử dụng ba ngôn ngữ chính thức hay các phương ngữ của Bỉ. Tuy nhiên, nhiều tiêu chí, gồm cả ngôn ngữ của cha mẹ, giáo dục, hay vị thế ngôn ngữ thứ hai của người sinh ở nước ngoài, có thể là cơ sở ước tính. Ước tính 59%[66] dân cư Bỉ nói tiếng Hà Lan (thường được gọi là "Flemish") và tiếng Pháp được sử dụng bởi 40%. Tổng số người nói tiếng Hà Lan là 6.23 triệu, tập trung ở vùng Flanders ở phía bắc, trong khi những người nói tiếng Pháp chiếm 3.32 triệu sống tại Wallonia và ước tính 0.87 triệu người hay 85% Vùng thủ đô Brussels song ngữ nói tiếng Pháp.[67][68] Cộng đồng nói tiếng Đức gồm 73.000 người ở phía đông Vùng Walloon; khoảng 10.000 người Đức và 60.000 người Bỉ cũng là người nói tiếng Đức. Khoảng 23.000 hay hơn số người nói tiếng Đức sống tại các khu đô thị gần cộng đồng.[4][69]

Các biển báo song ngữ tại Brussels.

Cả Bỉ nói tiếng Hà LanBỉ nói tiếng Pháp đều có những khác biệt nhỏ về từ vụng và sắc thái ngữ nghĩa so với ngôn ngữ được sử dụng tại Hà LanPháp. Nhiều người Flemish vẫn nói các phương ngữ tiếng Hà Lan trong môi trường địa phương của mình. Walloon, từng là ngôn ngữ vùng chính của Wallonia, hiện chỉ thỉnh thoảng được dùng và được hiểu, chủ yếu bởi những người già. Các phương ngữ của Wallonia, cùng với các phương ngữ Picard,[70] không được sử dụng trong đời sống công cộng.

Giáo dục[sửa | sửa mã nguồn]

Giáo dục là bắt buộc từ sáu tới mười tám tuổi với các công dân Bỉ, nhưng nhiều người có thể tiếp tục học tới khi 23 tuổi. Trong số các quốc gia OECD năm 2002, Bỉ có tỷ lệ dân cư trong độ tuổi 18–21 theo học sau cấp hai cao nhất, ở mức 42%.[71] Dù ước tính 98% dân số trưởng thành biết chữ, có lo ngại ngày càng tăng về nạn mù chữ chức năng.[70][72] Chương trình Đánh giá Sinh viên Quốc tế, được điều phối bởi OECD, hiện xếp hạng giáo dục Bỉ đứng hàng 19 thế giới, cao hơn nhiều so với mức độ trung bình của OECD.[73]

Phản ánh cơ cấu kép của hình thế chính trị Bỉ hồi thế kỷ 19, được đặc trưng hoá bởi Đảng Tự doĐảng Cơ đốc, hệ thống giáo dục được chia thành hệ thống thế tục và tôn giáo. Hệ thống thế tục được điều khiển bởi các Cộng đồng, các tỉnh, hay các khu đô thị, trong khi hệ thống tôn giáo, chủ yếu là nhánh giáo dục Cơ đốc, được tổ chức bởi các cơ quan tôn giáo, dù vẫn được trợ cấp và do các Cộng đồng giám sát.[74]

Tôn giáo[sửa | sửa mã nguồn]

Từ khi nước này giành độc lập, Công giáo Rôma - vốn từng có vai trò quan trọng trong chính trị Bỉ - đã gặp sự đối trọng từ các phong trào tự do tư tưởng mạnh.[75] Tuy nhiên Bỉ vẫn chủ yếu là một quốc gia thế tục bởi Hiến pháp phi giáo hội quy định tự do tín ngưỡng và chính phủ nói chung tôn trọng quyền tự do theo hay không theo tôn giáo. Trong thời cầm quyền của Albert IBaudouin, vương triều này nổi tiếng vì ủng hộ Công giáo.

Mang tính biểu tượng và cốt yếu, Giáo hội Công giáo Rôma vẫn có một ví thế đáng kể. Ý tưởng của Bỉ về 'các tôn giáo được công nhân'[76] đã mở ra con đường cho Hồi giáo tiếp nối và có được vị thế tương tự Do thái giáoTin lành. Tuy các tôn giáo nhỏ khác, như Hindu giáo, không có vị thế như vậy, Phật giáo đã thực hiện những bước đi đầu tiên tiến tới việc được công nhận vào năm 2007.[74][77][78] According to the 2001 Survey and Study of Religion,[79] khoảng 47% dân số tự coi mình là Kitô hữu, trong khi Hồi giáo đứng thứ hai với 3.5%. Một cuộc điều tra năm 2006 tại Flanders, nơi được coi là có tôn giáo mạnh hơn ở Wallonia, cho thấy 55% coi mình là người theo đạo và 36% tin rằng Thiên Chúa tạo ra thế giới.[80]

Theo cuộc điều tra gần đây nhất của Eurobarometer vào năm 2005,[81] 43% công dân Bỉ trả lời rằng "họ tin rằng có một Thiên Chúa", trong khi 29% trả lời rằng "họ tin rằng có một số kiểu sức mạnh tinh thần hay cuộc sống" và 27% trả lời rằng "họ không tin có bất kỳ một hình thức sức mạnh tinh thần, Thiên Chúa hay cuộc sống nào".

Ước tính từ 3% tới 4% dân số Bỉ là người Hồi giáo (98% Sunni) (350 000 tới 400 000 người).[82][83] Đa số tín đồ Hồi giáo người Bỉ sống tại các thành phố lớn, như Antwerp, BrusselsCharleroi. Nhóm người nhập cư lớn nhất tại Bỉ là người Marốc với 264.974 người. Người Thổ là nhóm đứng thứ ba, và nhóm Hồi giáo thứ hai, chiếm 159.336 người.[84] Cũng có một nhóm nhỏ dân cư là tín đồ Hindugiáo.[cần dẫn nguồn] Hơn nữa khoàng 10.000 tín đồ đạo Sikhs cũng sống tại Bỉ.[85]

Khoa học và công nghệ[sửa | sửa mã nguồn]

Trong suốt lịch sử đất nước, Bỉ luôn có những đóng góp vào sự phát triển khoa học và công nghệ. Những nhân vật nỏi bật thời Tiền hiện đại phát triển ở Tây Âu gồm nhà bản đồ Gerardus Mercator, nhà giải phẫu Andreas Vesalius, nhà nghiên cứu thảo mộc Rembert Dodoensnhà toán học Simon Stevin.

Sự phát triển nhanh chóng và dày đặc của mạng lưới đường sắt Bỉ đã khiến các công ty lớn như La Brugeoise et Nivelles (hiện là chi nhánh BN của Bombardier Transportation) phát triển những công nghệ riêng biệt và có tầm quan trọng về kinh tế như khai thác mỏ ở độ sâu lớn trong quá trình cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ nhất và nổi tiếng trong lĩnh vực kỹ thuật mỏ.

Cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 chứng kiến những tiến bộ quan trọng của Bỉ trong khoa học ứng dụngkhoa học thuần tuý. Nhà hoá học Ernest Solvay và kỹ sư Zenobe Gramme (École Industrielle de Liège) đã đặt tên mình cho quá trình SolvayGramme dynamo trong những năm 1860. Bakelite được phát triển giai đoạn 1907–1909 bởi Leo Baekeland. Georges Lemaître (Đại học Cơ đốc Leuven) được cho là người đã đề xuất lý thuyết Big Bang về nguồn gốc vũ trụ năm 1927. Ba giải Nobel Y học đã được trao cho những người Bỉ: Jules Bordet (Université Libre de Bruxelles) năm 1919, Corneille Heymans (University of Ghent) năm 1938 và Albert Claude (Université Libre de Bruxelles) cùng với Christian De Duve (Université Catholique de Louvain) năm 1974. Ilya Prigogine (Université Libre de Bruxelles) được trao giải Nobel Hoá học năm 1977.[86]

Văn hoá[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Văn hoá Bỉ

Đời sống văn hoá hiện nay tập trung bên trong mỗi cộng đồng ngôn ngữ và nhiều rào cản đã khiến sự tồn tại của một cộng đồng văn hoá chung ít được nhắc tới.[8][87][88] Từ thập niên 1970, không có các trường đại học song ngữ trong nước ngoại trừ Viện Hàn lâm Quân sự Hoàng gia, không có truyền thông chung[89] và không có một tổ chức văn hoá hay khoa học lớn duy nhất trong cả hai cộng đồng chính. Các lực từng giữ người Bỉ liên kết với nhau -Cơ đốc giáo La Mã và sự đối lập kinh tế và chính trị với người Hà Lan- không còn mạnh.[90] Dù có chia rẽ chính trị và ngôn ngữ từng gây bất đồng trong nhiều thế kỷ, vùng nước Bỉ ngày nay đã từng là nơi phát triển của các phong trào nghệ thuật lớn có ảnh hưởng to lớn trên văn hoá và nghệ thuật châu Âu.

Nghệ thuật[sửa | sửa mã nguồn]

Xem thêm thông tin: Danh sách hoạ sĩ BỉKiến trúc BỉÂm nhạc BỉVăn học BỉTruyện tranh Bỉ, và Điện ảnh Bỉ

Những đóng góp vào hội hoạ và kiến trúc đặc biệt đa dạng. Nghệ thuật Mosan, Early Netherlandish,[91] Phục hưng Flemishtrường phái Baroque[92] và những ví dụ khác về kiến trúc Roman, Gothic, Phục hưngBaroque[93] là các dấu mốc trong lịch sử nghệ thuật. Tuy nghệ thuật thế kỷ 15 tại các nước vùng thấp chủ yếu là các tranh tôn giáo của Jan van EyckRogier van der Weyden, thế kỷ 16 có đặc trưng ở sự đa dạng đề tài như các tranh phong cảnh của Peter Breughel và tranh theo chủ đề tái hiện cổ điển của Lambert Lombard.[94] Dù phong cách Baroque của Peter Paul RubensAnthony van Dyck phát triển ở đầu thế kỷ 17 tại Nam Hà Lan,[95] sau đó nó dần suy tàn.[96][97] Trong thế kỷ 19 và 20 nhiều hoạ sĩ lãng mạn, biểu hiệnsiêu thực Bỉ xuất hiện, gồm cả James Ensor, Constant Permeke, Paul DelvauxRené Magritte. Phong trào CoBrA tiên phong xuất hiện những năm 1950, trong khi nhà điêu khắc Panamarenko vẫn là một nhân vật đáng chú ý trong nghệ thuật hiện đại.[98][99] Nghệ sĩ Jan Fabre và hoạ sĩ Luc Tuymans là những nhân vật nổi tiếng trên phạm vi quốc tế trong lĩnh vực nghệ thuật đương đại. Những đóng góp của Bỉ trong kiến trúc tiếp tục kéo dài tới thế kỷ 19 và 20, gồm cả tác phẩm của Victor HortaHenry van de Velde, là những nhà sáng tạo chính của trường phái Art Nouveau (Nghệ thuật Mới).[100][101]

vocal music của Franco-Flemish School đã phát triển ở vùng phía nam các nước vùng thấp và là một đóng góp quan trọng vào văn hoá Phục hưng.[102] Thế kỷ 19 và 20 là thời điểm xuất hiện của những nghệ sĩ violin lớn, như Henri Vieuxtemps, Eugène YsaÿeArthur Grumiaux, trong khi Adolphe Sax phát minh ra saxophone năm 1846. Nhà soạn nhạc César Franck sinh tại Liège năm 1822. Âm nhạc hiện đại tại Bỉ cũng nổi tiếng. Nghệ sĩ nhạc Jazz Toots Thielemans và ca sĩ Jacques Brel cũng có danh tiếng quốc tế. Trong nhạc rock/pop, Telex, Front 242, K's Choice, Hooverphonic, Zap Mama, SoulwaxdEUS đều nổi tiếng.[103]

Bỉ cũng đã tạo ra nhiều tác gia nổi tiếng, gồm nhà thơ Emile Verhaeren và các nhà tiểu thuyết Hendrik Conscience, Georges Simenon, Suzanne LilarAmélie Nothomb. Nhà thơ và nhà soạn kịch Maurice Maeterlinck đã đoạt Giải Nobel văn học năm 1911. The Adventures of Tintin của Hergétruyện tranh Franco-Belgian nổi tiếng nhất, nhưng nhiều tác gia lớn khác, gồm cả Peyo (The Smurfs), André Franquin, Edgar P. JacobsWilly Vandersteen đã đưa ngành công nghiệp hoạt hình Bỉ lên ngang tầm với Hoa Kỳ và Nhật Bản.

Điện ảnh Bỉ, đã đưa một số tiểu thuyết lớn của Pháp lên màn ảnh.[104] Other Belgian directors include André Delvaux, Stijn Coninx, Luc and Jean-Pierre Dardenne; well-known actors include Jan Decleir and Marie Gillain; and successful films include Man Bites Dog and The Alzheimer Affair.[105] Trong những năm 1980, Viện Hàn lâm Nghệ thuật Hoàng gia tại Antwerp đã tạo ra nhiều người sáng lập khuynh hướng thời trang quan trọng, được gọi là Antwerp Six.[106]

Văn hoá dân gian[sửa | sửa mã nguồn]

Xem thêm thông tin: Văn hoá dân gian tại các nước vùng thấp
The Gilles of Binche, in costume, wearing wax masks

Văn hoá dân gain đóng một vai trò quan trọng trong đời sống văn hoá Bỉ: nước này có số lượng khá lớn các đám diễu hành, đoàn cưỡi ngựa, 'ommegangs' và 'ducasses',[107] 'kermesse' và các festival địa phương khác, hầu như luôn luôn có một bối cảnh thần thoại hay tôn giáo đi kèm. Carnival of Binche với Gilles nổi tiếng của nó và 'Processional Giants and Dragons' Ath, Brussels, Dendermonde, MechelenMons được UNESCO công nhận là Tuyệt tác truyền khẩu và phi vật thể của Nhân loại.[108] Các ví dụ khác là Carnival Aalst; các cuộc diễu hành mang đậm tính tôn giáo của the Holy Blood tại Bruges, Virga Jesse BasilicaHasseltHanswijk tại Mechelen; festival ngày 15 tháng 8 tại Liège; và festival Walloon tại Namur. Có nguồn gốc từ năm 1832 và được khôi phục trong những năm 1960, Gentse Feesten đã trở thành một truyền thống hiện đại. Một ngày lễ không chính thức quan trọng là Ngày Thánh Nicholas, một lễ hội cho trẻ em và, tại Liège, cho các sinh viên.[109]

Thể thao[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Thể thao tại Bỉ

Bóng đáđua xe đạp là các môn thể thao phổ biến nhất tại Bỉ. Với năm lần giành chiến thắng tại Tour de France và nhiều giải đua xe khác, vận động viên Bỉ Eddy Merckx được xếp hạng #1 trong số những tay đua xuất sắc nhất mọi thời đại.[110] Kỷ lục đua xe tính giờ của ông (được lập năm 1972) đã tồn tại trong 12 năm. Jean-Marie Pfaff, cựu thủ môn Bỉ, được coi là một trong những người xuất sắc nhất trong lịch sử bóng đá.[111] Bỉ hiện đang cùng Hà Lan xin đồng đăng cai World Cup 2018.[112] Cả hai nước trước kia từng là nơi tổ chức Giải vô địch bóng đá châu Âu năm 2000. Bỉ cũng từng tổ chức giải vô địch bóng đá châu Âu năm 1972.

Kim ClijstersJustine Henin đều từng là Tay vợt của năm của Hiệp hội Tennis Nữ khi họ được xếp hạng tay vợt nữ số một. Trường đua Spa-Francorchamps cũng là nơi diễn ra vòng đua Belgian Grand Prix thuộc Giải vô địch Công thức 1 Thế giới. Tay đua người Bỉ, Jacky Ickx, đã giành tám Grands Prix và sáu 24 Hours of Le Mans và hai lần về nhì Giải vô địch Công thức 1 Thế giới. Bỉ cũng có danh tiếng về motocross; các nhà vô địch thế giới gồm Roger De Coster, Joël Robert, Georges Jobé, Eric Geboers, Joël SmetsStefan Everts.

Các sự kiện thể thao được tổ chức hàng năm tại Bỉ gồm cuộc thi đấu điền kinh kỷ niệm Memorial Van Damme, vòng đua Belgian Grand Prix Công thức 1, và một số cuộc đua xe đạp cổ điển như Ronde van VlaanderenLiège-Bastogne-Liège. Olympic mùa hè năm 1920 đã được tổ chức tại Antwerp, Bỉ.

Brussels waffles, commonly known as Belgian waffles outside of Belgium. Many different types of waffle are popular in Belgium.

Ẩm thực[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Ẩm thực Bỉ

Nhiều nhà hàng được đánh giá cao của Bỉ xuất hiện trong hầu hết các cuốn hướng dẫn ẩm thực danh tiếng, như Michelin Guide.[113] Bỉ nổi tiếng về bánh quếkhoai tây chiên (french fries). Trái ngược với cái tên của nó (french là của Pháp), khoai tây chiên cũng có nguồn gốc từ Bỉ. Cái tên "french fries" thực tế miêu tả cách cắt khoai tây. Động từ "french" có nghĩa là cắt thành miếng nhỏ. Các món đặc sản quốc gia là "thịt nướng và khoai tây chiên với salad", và "trai với khoai tây chiên".[114][115][116]

Các nhãn hiệu chocolatekẹo hạt dẻ của Bỉ, như Callebaut, Côte d'Or, Neuhaus, Leonidas, Guylian, GallerGodiva, đều nổi tiếng thế giới và được bán rộng rãi.

Bỉ sản xuất hơn 500 loại bia. Bia Trappist của Tu viện Westvleteren luôn được xếp hạng là loại bia ngon nhất thế giới.[117] Công ty bia lớn nhất thế giới theo sản lượng là Anheuser-Busch InBev, có trụ sở tại Leuven.[118]

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Cước chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ National Day and feast days of Communities and Regions. Belgian Federal Government. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2011.
  2. ^ Footnote: Bỉ cũng là một thành viên của, hay liên kết với, nhiều tổ chức quốc tế, gồm ACCT, AfDB, AsDB, Australia Group, Benelux, BIS, CCC, CE, CERN, EAPC, EBRD, EIB, EMU, ESA, EU, FAO, G-10, IAEA, IBRD, ICAO, ICC, ICRM, IDA, IDB, IEA, IFAD, IFC, IFRCS, IHO, ILO, IMF, IMO, IMSO, Intelsat, Interpol, IOC, IOM, ISO, ITU, MONUC (quan sát viên), NATO, NEA, NSG, OAS (observer), OECD, OPCW, OSCE, PCA, UN, UNCTAD, UNECE, UNESCO, UNHCR, UNIDO, UNMIK, UNMOGIP, UNRWA, UNTSO, UPU, WADB (non-regional), WEU, WHO, WIPO, WMO, WTrO, ZC.
  3. ^ Leclerc, Jacques, , membre associé du TLFQ (18 tháng 1 năm 2007). “Belgique • België • Belgien—Région de Bruxelles-Capitale • Brussels Hoofdstedelijk Gewest”. L'aménagement linguistique dans le monde (bằng French). Host: Trésor de la langue française au Québec (TLFQ), Université Laval, Quebec. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2007. “C'est une région officiellement bilingue formant au centre du pays une enclave dans la province du Brabant flamand (Vlaams Brabant)” 
    * “About Belgium”. Belgian Federal Public Service (ministry) / Embassy of Belgium in the Republic of Korea. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2007. “the Brussels-Capital Region is an enclave of 162 km2 within the Flemish region.” 
    * “Flanders (administrative region)”. Microsoft Encarta Online Encyclopedia. Microsoft. 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 10 năm 2009. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2007. “The capital of Belgium, Brussels, is an enclave within Flanders.” 
    * McMillan, Eric (October năm 1999). “The FIT Invasions of Mons” (PDF). Capital translator, Newsletter of the NCATA, Vol. 21, No. 7, p. 1. National Capital Area Chapter of the American Translators Association (NCATA). Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2007. “The country is divided into three increasingly autonomous regions: Dutch-speaking Flanders in the north; mostly French-speaking Brussels in the center as an enclave within Flanders and French-speaking Wallonia in the south, including the German-speaking Cantons de l'Est).”  Đã bỏ qua tham số không rõ |month= (gợi ý |date=) (trợ giúp)
    * Van de Walle, Steven, lecturer at University of Birmingham Institute of Local Government Studies, School of Public Policy. “Language Facilities in the Brussels Periphery” (PDF). KULeuven—Leuvens Universitair Dienstencentrum voor Informatica en Telematica. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 10 năm 2009. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2007. “Brussels is a kind of enclave within Flanders—it has no direct link with Wallonia.” 
  4. ^ a ă “The German-speaking Community”. The German-speaking Community. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2007.  The (original) version in German language (already) mentions 73.000 instead of 71.500 inhabitants.
  5. ^ Morris, Chris (13 tháng 5 năm 2005). “Language dispute divides Belgium”. BBC News. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2007. 
  6. ^ Petermann, Simon, Professor at the University of Liège, Wallonia, Belgium—at colloquium IXe Sommet de la francophonie—Initiatives 2001—Ethique et nouvelles technologies, session 6 Cultures et langues, la place des minorités, Bayreuth (25 tháng 9 năm 2001). “Langues majoritaires, langues minoritaires, dialectes et NTIC” (bằng French). Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2007. 
  7. ^ Haß, Torsten, Head of the Fachhochschule (University of Applied Sciences) of Kehl Library, Kehl, Germany (17 tháng 2 năm 2003). “Rezention zu (Review of) Cook, Bernard: Belgium. A History ISBN 0-8204-5824-4” (bằng tiếng Đức). FH-Zeitung (journal of the Fachhochschule). Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2007. “die Bezeichnung Belgiens als „the cockpit of Europe" (James Howell, 1640), die damals noch auf eine kriegerische Hahnenkampf-Arena hindeutete” [liên kết hỏng]—The book reviewer, Haß, attributes the expression in English to James Howell in 1640. Howell's original phrase "the cockpit of Christendom" became modified afterwards, as shown by:
    Carmont, John. “The Hydra No.1 New Series (tháng 11 năm 1917)—Arras And Captain Satan”. War Poets Collection. Napier University’s Business School. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2007. —and as such coined for Belgium:
    Wood, James (1907). “Nuttall Encyclopaedia of General Knowledge—Cockpit of Europe”. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2007. “Cockpit of Europe, Belgium, as the scene of so many battles between the Powers of Europe.”  (Xem thêm The Nuttall Encyclopaedia)
  8. ^ a ă â b Fitzmaurice, John, at the Secretariat-General of the European Commission, taught at the Université Libre de Bruxelles (1996). “New Order? International models of peace and reconciliation—Diversity and civil society”. Democratic Dialogue Northern Ireland's first think tank, Belfast, Northern Ireland, UK. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2007. 
  9. ^ “Belgium country profile”. EUbusiness, Richmond, UK. 27 tháng 8 năm 2006. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2007. 
  10. ^ Karl, Farah (text); Stoneking, James (course) (1999). “Chapter 27. The Age of Imperialism (Section 2. The Partition of Africa)” (PDF). World History II. Appomattox Regional Governor's School (History Department), Petersburg, VA, USA. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2007. [liên kết hỏng]
  11. ^ Bunson, Matthew (1994). Encyclopedia of the Roman Empire . Facts on File, New York. tr. 169. ISBN [[Đặc biệt:Nguồn sách/0 8160 2135 X [Paperback 512pp, ISBN 0-8160-3182-7; Revised edition (2002), Hardcover 636pp, ISBN 0-8160-4562-3]|0 8160 2135 X [Paperback 512pp, ISBN 0-8160-3182-7; Revised edition (2002), Hardcover 636pp, ISBN 0-8160-4562-3]]] Kiểm tra giá trị |isbn= (trợ giúp). 
  12. ^ Footnote: The Celtic and/or Germanic influences on and origin(s) of the Belgae remains disputed. Đọc thêm e.g. Witt, Constanze Maria (May năm 1997). “Ethnic and Cultural Identity”. Barbarians on the Greek Periphery?—Origins of Celtic Art. Institute for Advanced Technology in the Humanities, University of Virginia. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2007.  Đã bỏ qua tham số không rõ |month= (gợi ý |date=) (trợ giúp)
  13. ^ Edmundson, George (1922). “Chapter II: Habsburg Rule in the Netherlands”. History of Holland. The University Press, Cambridge. Republished: Authorama. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2007. 
  14. ^ Footnote: Đọc thêm: France in the 17th and 18th centuries
  15. ^ Kris Deschouwer (January năm 2004). “Ethnic structure, inequality and governance of the public sector in Belgium” (PDF). United Nations Research Institute for Social Development (UNRISD). Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2007.  Đã bỏ qua tham số không rõ |month= (gợi ý |date=) (trợ giúp)
  16. ^ Meredith, Mark (6 tháng 6 năm 2005). The State of Africa . Free Press. tr. 95–96(?). ISBN 0-7432-3221-6. 
  17. ^ The Congolese Civil War 1960–1964
  18. ^ Franklin, Mark N., Trinity College, Connecticut (2001). “The Dynamics of Electoral Participation—Table 10.1 Average turnout in free elections to the lower house in 40 countries, 1961–1999” (PDF). tr. 32. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2007. 
  19. ^ “Belgium—Constitution—Title III Powers, Chapter II The Senate, Article 72 [King's Descendants] ; and Title III, Chapter III King and Federal Government, Section I The King; and Section II The Federal Government, Article 99 [Composition of Government]”. International Constitutional Law. Institut für öffentliches Recht, University of Berne, Switzerland. 17 tháng 2 năm 1994. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 4 năm 2007. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2007.  Or both:
    * “Title III on power, Chapter II on the Senate, Art. 72”. The Constitution of Belgium. The Federal Parliament of Belgium. 21 tháng 1 năm 1997. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2007.  And
    * “Title III on Power, Chapter III on the King and the Federal Government, Section I on the King and Section II on the Federal Government, Art. 99”. The Constitution of Belgium. The Federal Parliament of Belgium. 21 tháng 1 năm 1997. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2007. 
  20. ^ Tyler, Richard (8 tháng 6 năm 1999). “Dioxin contamination scandal hits Belgium: Effects spread through European Union and beyond”. World Socialist Web Site (WSWS). International Committee of the Fourth International (ICFI). Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2007. —Follow-up on occasion of 2nd dioxin crisis: α
  21. ^ European Commission (16 tháng 6 năm 1999). “Food Law News—EU: CONTAMINANTS—Commission Press Release (IP/99/399) Preliminary results of EU-inspection to Belgium” (Thông cáo báo chí). School of Food Biosciences, University of Reading, UK. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2007. 
  22. ^ “Belgium's "rainbow" coalition sworn in”. BBC News. 12 tháng 7 năm 1999. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2007. 
  23. ^ “La Chambre des représentants—Composition (Composition of the Chamber of Representatives)” (PDF) (bằng French). The Chamber of Representatives of Belgium. 9 tháng 3 năm 2006. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2007. 
  24. ^ “Rwanda”. tiscali.reference. Tiscali UK. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2007.  The article shows an example of Belgium's recent African policies.
  25. ^ “Belgian demand halts NATO progress”. CNN News. 16 tháng 2 năm 2003. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2007. 
  26. ^ “Time-line Belgium”. BBC-News. 5 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2009. “2007 September - Belgium without a government for 100 days.” 
  27. ^ BBC news, july 15th, 2008
  28. ^ [1] Belgium Prime Minister offers resignation over banking deal
  29. ^ Belgian king asks Van Rompuy to form government Reuters
  30. ^ Reporters Without Frontiers, 2007
  31. ^ Johannes Kramer (1984). Zweisprachigkeit in den Benelux-ländern (bằng tiếng Đức). Buske Verlag. tr. 69. ISBN 3871185973. “Zur prestige Sprache wurde in den Spanischen Niederlanden ganz eindeutig das Französische. Die Vertreter Spaniens beherrschte normalerweise das Französische, nicht aber das Niedderländische; ein beachtlicher Teil der am Hofe tätigen Adligen stammte aus Wallonien, das sich ja eher auf fie spanische Seite geschlagen hatte als Flandern und Brabant. In dieser Situation war es selbstverständlich, dass die flämischen Adligen, die im Laufe der Zeit immer mehr ebenfalls zu Hofbeamten wurden, sich des Französischen bedienen mussten, wenn sie als gleichwertig anerkannt werden wollten. [Transl.: The prestigious language in the Spanish Netherlands was clearly French. The Spain's representatatives usually mastered French but not Dutch; a notable part of the nobles at the court came from Wallonia, which had taken party for the Spanish side to a higher extent than Flanders and Brabant. It was therefore evident within this context that the Flemish nobility, of which a progessively larger number became servants of the court, had to use French, if it wanted to get acknowledged as well.]” 
  32. ^ Willemyns, Roland, Vrije Universiteit Brussel, Germanic Languages (2002). “The Dutch-French Language Border in Belgium” (PDF). Journal of Multilingual and Multicultural Development 23 (1&2): 36–49. doi:10.1080/01434630208666453. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2007. 
  33. ^ Footnote: Each municipality of the Kingdom is part of one of the four language areas (taalgebieden in Dutch, Sprachgebiete in German), occasionally called linguistic regions (régions linguistiques in French). See the three legal versions of the Constitution:
    * “Titel I: Het federale België, zijn samenstelling en zijn grondgebied”. De Belgische Grondwet (bằng Dutch). Belgian Senate. 2007-05-15 last update of web page. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2007. “Art. 4 België omvat vier taalgebieden” 
    * “Titel I: Das föderale Belgien, seine Zusammensetzung und sein Staatsgebiet”. Die Verfassung Belgiens (bằng tiếng Đức). Belgian Senate. 2007-05-15 last update of web page. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2007. “Art. 4 Belgien umfaßt vier Sprachgebiete” 
    * “Titre Ier: De la Belgique fédérale, de ses composantes et de son territoire”. La Constitution Belge (bằng French). Belgian Senate. 2007-05-15 last update of web page. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2007. “Art. 4 La Belgique comprend quatre régions linguistiques” 
    English translation, not recently cập nhật and without legal value:
    * “Title I: On Federal Belgium, its components and its territory”. the Constitution. Belgian Senate. 1997-01-21 last update of main 'the Constitution' page on web site. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2007. “Art. 4 Belgium has four linguistic regions” 
  34. ^ Footnote: The Constitution set out seven institutions each of which can have a parliament, government and administration. In fact there are only six such bodies because the Flemish Region merged into the Flemish Community. This single Flemish body thus exercises powers about Community matters in the bilingual area of Brussels-Capital and in the Dutch language area, while about Regional matters only in the latter.
  35. ^ a ă “The Federal Government's Powers”. .be Portal. Belgian Federal Government. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2007. [liên kết hỏng]
  36. ^ Charles-Etienne Lagasse (2003). Les nouvelles institutions politiques de la Belgique et de l'Europe. Namur: Erasme. tr. 289. ISBN 2-87127-783-4. “In 2002, 58.92% of the fiscal income was going to the budget of the federal government, but more than one third was used to pay the interests of the public debt. Without including this post, the share of the federal government budget would be only 48.40% of the fiscal income. There are 87,8% of the civil servants who are working for the Regions or the Communities and 12,2% for the Federal State.” 
  37. ^ a ă “The Communities”. .be Portal. Belgian Federal Government. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2007. [liên kết hỏng]
  38. ^ a ă “The Regions”. .be Portal. Belgian Federal Government. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2007. [liên kết hỏng]
  39. ^ Charles-Etienne Lagasse (May 17–18, 2004). “Federalism in Russia, Canada and Belgium: experience of comparative research” (bằng tiếng Pháp). Kazan Institute of Federalism. ‘La Belgique constitue ainsi le seul exemple clair du transfert d’une partie de la compétence « affaires étrangères » à des entités fédérées. (Transl.: Belgian is the only example of a transfer of a part of the power "foreign policy" to federating units’ 
  40. ^ C.E. Lagasse. Les nouvelles institutions de la Belgique et de l'Europe (bằng tiếng Pháp). tr. 603. “[Le fédéralisme belge] repose sur une combinaison unique d'équipollence, d'exclusivité et de prolongement international des compétences. (Transl.: [Belgian federalism] is based on a unique combination of equipollent and exclusiv powers prolonged ont the international scene.)” 
  41. ^ Philippe Suinen (October năm 2000). “Une Première mondiale”. Le Monde Diplomatique (bằng tiếng Pháp). “Dans l’organisation de ces autonomies, la Belgique a réalisé une « première » mondiale: afin d’éviter la remise en cause, par le biais de la dimension internationale, de compétences exclusives transférées aux entités fédérées, les communautés et régions se sont vu reconnaître une capacité et des pouvoirs internationaux. (Transl.: Belgian was the first country who gave the treaty-making policy to the Federating units)”  Đã bỏ qua tham số không rõ |month= (gợi ý |date=) (trợ giúp)
  42. ^ “Belgium—The land—Relief”. Encyclopædia Britannica online. Encyclopædia Britannica, Chicago, IL, USA. © 2007. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2007. 
  43. ^ “Geography of Belgium”. 123independenceday.com. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2007. 
  44. ^ “Life—Nature” (PDF 3.8 MB). Office for Official Publications of the European Communities. 2005. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2007. 
  45. ^ “Climate averages—Brussels”. EuroWEATHER/EuroMETEO, Nautica Editrice Srl, Rome, Italy. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2007. 
  46. ^ “Kerncijfers 2006—Statistisch overzicht van België” (PDF 1.8 MB) (bằng Dutch). Belgian Federal Government Service (ministry) of Economy—Directorate-general Statistics Belgium. tr. 9–10. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2007. 
  47. ^ Takhtajan, Armen, 1986. Floristic Regions of the World. (translated by T.J. Crovello & A. Cronquist). University of California Press, Berkeley.
  48. ^ Atlantic mixed forests (PA0402), World Wildlife Fund, 2001.
  49. ^ Pearce, Fred (5 tháng 3 năm 2003). “Sewage-laden Belgian water worst in world”. New Scientist. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2006. 
  50. ^ Pilot 2006 Environmental Performance Index – Yale Center for Environmental Law & Policy and Columbia University Center for International Earth Science Information Network
  51. ^ Bỉ xếp hạng nhất về KOF Chỉ số toàn cầu hoá 2009 ETH Zürich (biên tập). “KOF Index of Globalization”. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2009. 
  52. ^ “Rank Order - Exports”. CIA - The 2008 world factbook. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2008. “15[th]: Belgium $322.200.000.000 (2007 est.)” 
  53. ^ “Rank Order - Imports”. CIA - The 2008 world factbook. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2008. “15[th]: Belgium $323.200.000.000 (2007 est.)” 
  54. ^ “Belgian economy”. Belgium. Belgian Federal Public Service (ministry) of Foreign Affairs, Foreign Trade and Development Cooperation. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2009. “Belgium is the world leader in terms of export per capita and can justifiably call itself the 'world's largest exporter'.” 
  55. ^ “Wallonia in 'decline' thanks to politicians”. Expatica Communications BV. 9 tháng 3 năm 2005. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2007. 
  56. ^ “Industrial History Belgium”. European Route of Industrial Heritage. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2007. 
  57. ^ Jean-Pierre Rioux (1989). La révolution industrielle (bằng tiếng Pháp). Paris: Seuil. tr. 105. ISBN 2-02-000651-0. 
  58. ^ “Background Note: Belgium”. US Department of State, Bureau of European and Eurasian Affairs. April năm 2007. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2007.  Đã bỏ qua tham số không rõ |month= (gợi ý |date=) (trợ giúp)
  59. ^ Vanhaverbeke, Wim. “Het belang van de Vlaamse Ruit vanuit economisch perspectief The importance of the Flemish Diamond from an economical perspective (bằng Dutch). Netherlands Institute of Business Organization and Strategy Research, University of Maastricht (Faculty of Economics and Business Administration), The Netherlands. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2007. [liên kết hỏng]
  60. ^ “The World Factbook—(Rank Order—Public debt)”. CIA. 17 tháng 4 năm 2007. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2007. 
  61. ^ “Key figures”. National Bank of Belgium. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2007. [liên kết hỏng]
  62. ^ Perrin, Nicolas, UCLouvain, Study Group of Applied Demographics (Gédap) (April năm 2006). “European Migration Network—Annual Statistical Report on migration and asylum in Belgium (Reference year 2003)—section A. 1) b) Population by citizenship & c) Third country nationals, 1 tháng 1 năm 2004” (PDF). Belgian Federal Government Service (ministry) of Interior—Immigration Office. tr. 5–9. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2007.  Đã bỏ qua tham số không rõ |month= (gợi ý |date=) (trợ giúp)
  63. ^ De vreemde bevolking
  64. ^ “Quelques résultats des précédents recensements—Indicateurs de logement (1991)” (bằng French switchable to Dutch). Belgian Federal Government Service (ministry) of Economy—Directorate-general Statistics Belgium. © 1998/2007. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2007. 
  65. ^ “Structuur van de bevolking—België / Brussels Hoofdstedelijk Gewest / Vlaams Gewest / Waals Gewest / De 25 bevolkingsrijkste gemeenten (2000–2006)” (asp) (bằng Dutch). Belgian Federal Government Service (ministry) of Economy—Directorate-general Statistics Belgium. © 1998/2007. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2007. 
  66. ^ Footnote: Native speakers of Dutch living in Wallonia and of French in Flanders are relatively small minorities that furthermore largely balance one another, hence counting all inhabitants of each unilingual area to the area's language can cause only insignificant inaccuracies (99% can speak the language). Dutch: Flanders' 6.079 million inhabitants and about 15% of Brussels' 1.019 million are 6.23 million or 59.3% of the 10.511 million inhabitants of Belgium (2006); German: 70.400 in the German-speaking Community (which has language facilities for its less than 5% French-speakers) and an ước tínhd 20.000–25.000 speakers of German in the Walloon Region outside the geographical boundaries of their official Community, or 0.9%; French: in the latter area as well as mainly in the rest of Wallonia (3.414 − 0.093 = 3.321 million) and 85% of the Brussels inhabitants (0.866 million) thus 4.187 million or 39.8%; together indeed 100%.
  67. ^ Flemish Academic Eric Corijn (initiator of Charta 91), at a colloquium regarding Brussels, on 2001-12-05, states that in Brussels there is 91% of the population speaking French at home, either alone or with another language, and there is about 20% speaking Dutch at home, either alone (9%) or with French (11%)—After ponderation, the repartition can be ước tínhd at between 85 and 90% French-speaking, and the remaining are Dutch-speaking, corresponding to the estimations based on languages chosen in Brussels by citizens for their official documents (ID, driving licenses, weddings, birth, sex, and so on); all these statistics on language are also available at Belgian Department of Justice (for weddings, birth, sex), Department of Transport (for Driving licenses), Department of Interior (for IDs), because there are no means to know precisely the proportions since Belgium has abolished 'official' linguistic censuses, thus official documents on language choices can only be estimations. For a web source on this topic, see e.g. General online sources: Janssens, Rudi
  68. ^ “Belgium Market background”. British Council. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2007. “The capital Brussels, 80–85 percent French-speaking,...” —Strictly, the capital is the municipality (City of) Brussels, though the Brussels-Capital Region might be intended because of its name and also its other municipalities housing institutions typical for a capital.
  69. ^ “Citizens from other countries in the German-speaking Community”. The German-speaking Community. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2007. 
    * “German (Belgium)—Overview of the language”. Mercator, Minority Language Media in the European Union, supported by the European Commission and the University of Wales. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2007. 
    * Leclerc, Jacques , membre associé du TLFQ (19 tháng 4 năm 2006). “Belgique • België • Belgien—La Communauté germanophone de Belgique”. L'aménagement linguistique dans le monde (bằng French). Host: Trésor de la langue française au Québec (TLFQ), Université Laval, Quebec. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2007. 
  70. ^ a ă Gordon, Raymond G., Jr. (ed.) (2005). “Languages of Belgium”. Ethnologue: Languages of the World, 15th edition. SIL International Dallas, Texas, USA. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2007. 
  71. ^ Chapter 6. International Comparisons of Education. “Table 388. Percentage of population enrolled in secondary and postsecondary institutions, by age group and country”. Digest of Education Statistics—Tables and Figures. National Center for Education Statistics, Institute of Education Sciences (IES), US Department of Education. 2005, data: 2002. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2007. 
  72. ^ “I. Monitoring Human Development: Enlarging peoples's choices... —5. Human poverty in OECD, Eastern Europe and the CIS” (PDF). Human Development Indicators. United Nations Development Programme (UNDP). 2000. tr. 172–173. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2007. [liên kết hỏng]
  73. ^ http://www.oecd.org/dataoecd/42/8/39700724.pdf
  74. ^ a ă De Ley, Herman (2000). “Humanists and Muslims in Belgian Secular Society (Draft version)”. Centrum voor Islam in Europe (Centre for Islam in Europe), Ghent University. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2007. 
  75. ^ See for example Belgium entry of the Catholic Encyclopedia
  76. ^ “2001 Annual Report on Human Rights in Belgium” (PDF). 
  77. ^ Bousetta, Hassan; Gsir, Sonia; Jacobs, Dirk (2005). “Active Civic Participation of Immigrants in Belgium—Country Report prepared for the European research project POLITIS, Oldenburg” (PDF). Carl von Ossietzky University, Oldenburg IBKM. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2007. “In many respects, the Catholic Roman Church remains in a very advantageous situation. The long and troublesome process that eventually lead to the recognition of Islam is also illustrative of the ambiguity of the relations between the Belgian State and religions. For 25 years, Islam has been maintained in an unfair position in comparison to other religions.” 
  78. ^ “België gaat plat op zijn buik voor China (Belgium bends over backwards for China)” (bằng Dutch) (#1455). Metro (Belgian newspaper). 10 tháng 5 năm 2007. tr. 2. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2007. “[Upon the Dalai Lama for the second time in two years canceling a visit to Belgium after being informed by the Belgian government of Peking's diplomatic pressure, quote newspaper:] Uittredend Senaatsvoorzitster Anne-Marie Lizin reageert teleurgesteld: 'Gezien het belang van de vergadering waaraan u wilde deelnemen en gezien de redenen van uw beslissing, betreur ik dat ik u niet kan ontvangen in ons land, een land dat openstaat voor iedereen, ongeacht de religieuze overtuiging, en dat net een eerste stap heeft gezet in de erkenning van het'[sic] 'boeddhistische filosofie'. (Lawfully resigning at the end of the government's legislation, President of the Senat Anne-Marie Lizin reacts disappointedly: 'In view of the importance of the meeting you wanted to attend and in view of the reasons of your decision, I regret not being able to receive you in our country, a country open for everyone regardless of religious conviction, and which has just set a first step towards the recognition of the Buddhist philosophy.')”  Alternative urls:α, β, pdf 1.1 MB:γ[liên kết hỏng]
  79. ^ “Belgium”. International Religious Freedom Report 2004. US Department of State, Bureau of Democracy, Human Rights and Labor. 2004. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2007. 
  80. ^ Inquiry by 'Vepec', 'Vereniging voor Promotie en Communicatie' (Organisation for Promotion and Communication), published in Knack magazine 22 November2006 p. 14 [The Dutch language term 'gelovig' is in the text translated as 'religious', more precisely it is a very common word for believing in particular in any kind of God in a monotheistic sense and/or in some afterlife].
  81. ^ “Eurobarometer on Social Values, Science and technology 2005 – page 11” (PDF). Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2007. 
  82. ^ The many faces of Islam, TIME
  83. ^ 'Belgian Malcolm X' seeks office
  84. ^ Voor het eerst meer Marokkaanse dan Italiaanse migranten[liên kết hỏng]
  85. ^ Dutch newspaper on Sikhs celebrating Maghi in Brussels
  86. ^ “Rembert Dodoens: iets over zijn leven en werk—Dodoens' werken”. Plantaardigheden—Project Rembert Dodoens (Rembertus Dodonaeus) (bằng Dutch). Stichting Kruidenhoeve/Plantaardigheden, Balkbrug, the Netherlands. Revised 20 tháng 12 năm 2005. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2007. “... het Cruijdeboeck, dat in 1554 verscheen. Dit meesterwerk was na de bijbel in die tijd het meest vertaalde boek. Het werd gedurende meer dan een eeuw steeds weer heruitgegeven en gedurende meer dan twee eeuwen was het het meest gebruikte handboek over kruiden in West-Europa. Het is een werk van wereldfaam en grote wetenschappelijke waarde. De nieuwe gedachten die Dodoens erin neerlegde, werden de bouwstenen voor de botanici en medici van latere generaties. (... the Cruijdeboeck, published in 1554. This masterpiece was, after the Bible, the most translated book in that time. It continued to be republished for more than a century and for more than two centuries it was the mostly used referential about herbs. It is a work with world fame and great scientific value. The new thoughts written down by Dodoens, became the building bricks for botanists and physicians of later generations.) 
    * O'Connor, J. J.; Robertson, E. F. (2004). “Simon Stevin”. School of Mathematics and Statistics, University of St Andrews, Scotland. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2007. “Although he did not invent decimals (they had been used by the Arabs and the Chinese long before Stevin's time) he did introduce their use in mathematics in Europe.” 
    * “Abstract (*)”. S. Karger AG, Basel. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2007. “The importance of A. Vesalius' publication 'de humani corporis fabrica libri septem' cannot be overước tínhd.”  (*) Free abstract for pay-per-view article by De Broe, Marc E.; De Weerdt, Dirk L.; Ysebaert, Dirk K.; Vercauteren, Sven R.; De Greef, Kathleen E.; De Broe Luc C. (1999). “The Low Countries - 16th/17th century” (PDF). American Journal of Nephrology 19 (2): 282–9. doi:10.1159/000013462. PMID 10213829. 
    * Midbon, Mark, University of Wisconsin–Madison (24 tháng 3 năm 2000). “'A Day Without Yesterday': Georges Lemaitre & the Big Bang”. Commonweal, republished: Catholic Education Resource Center (CERC). tr. 18–19. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2007. 
  87. ^ “Belgium—Arts and cultural education”. Compendium of Cultural Policies and Trends in Europe, 8th edition. Council of Europe / ERICarts. 2007. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2007. 
  88. ^ “Belgique”. European Culture Portal. European Commission. 2007. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2007. 
  89. ^ Adrien Gonthier (2003). “Frontière linguistique, frontière politique, une presse en crise” (bằng tiếng Pháp). Le Monde Diplomatique. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2008. 
  90. ^ Mumford, David (2008). The World Today Series. Western Europe/2007. NY Times. ISBN 1-887985-89-1. 
  91. ^ “Low Countries, 1000–1400 CN”. Timeline of Art History. Metropolitan Museum of Art. 2007. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2007. 
  92. ^ “Low Countries, 1400–1600 CN”. Timeline of Art History. Metropolitan Museum of Art. 2007. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2007. 
  93. ^ Nhiều công trình kiến trúc tại Bỉ hiện đã được ghi trong Danh sách Di sản Thế giới của UNESCO: “Belgium”. Properties inscribed on the World Heritage List. UNESCO. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2007. 
  94. ^ Hendrick, Jacques (1987). La peinture au pays de Liège (bằng tiếng Pháp). Liège: Editions du Perron. tr. 24. ISBN 287114026X. 
  95. ^ Guratzsch, Herwig (1979). Die große Zeit der niederländische Malerei (bằng tiếng Đức). Freiburg im Beisgau: Verlag Herder. tr. 7. 
  96. ^ “Low Countries, 1600–1800 CN”. Timeline of Art History. Metropolitan Museum of Art. 2007. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2007. 
  97. ^ “Art History: Flemish School: (1600–1800)—Artists: (biography & artworks)”. World Wide Arts Resources. 5 tháng 2 năm 2006. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2007. —A general presentation of the Flemish artistic movement with a list of its artists, linking to their biographies and artworks
  98. ^ “Belgian Artists: (biographies & artworks)”. World Wide Arts Resources. 5 tháng 2 năm 2006. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2007. —List of Belgian painters, linking to their biographies and artworks
  99. ^ Baudson, Michel (1996). “Panamarenko”. Flammarion (Paris), quoted at presentation of the XXIII Bienal Internacional de São Paulo. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2007. [liên kết hỏng]
  100. ^ Brussels, capital of Art Nouveau (page 1), “ib. (page2)”. Senses Art Nouveau Shop, Brussels. 2007. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2007.  (for example)
  101. ^ “Major Town Houses of the Architect Victor Horta (Brussels)”. UNESCO's World Heritage List. UNESCO. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2007. “The appearance of Art Nouveau in the closing years of the 19th century marked a decisive stage in the evolution of architecture, making possible subsequent developments, and the Town Houses of Victor Horta in Brussels bear exceptional witness to its radical new approach.” 
  102. ^ “Western music, the Franco-Flemish school”. Encyclopædia Britannica. 2007. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2007. “Most significant musically was the pervasive influence of musicians from the Low Countries, whose domination of the musical scene during the last half of the 15th century is reflected in the period designations the Netherlands school and the Franco-Flemish school.” 
  103. ^ Two comprehensive discussions of rock and pop music in Belgium since the fifties:
    * “The Timeline—A brief history of Belgian Pop Music”. The Belgian Pop & Rock Archives. Flanders Music Centre, Brussels. March năm 2007. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2007.  Đã bỏ qua tham số không rõ |month= (gợi ý |date=) (trợ giúp)
    * “Belgian Culture—Rock”. Vanberg & DeWulf Importing. © 2006. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2007. 
  104. ^ Notable Belgian films based on works by Flemish authors include: De Witte (author Ernest Claes) movie by Jan Vanderheyden & Edith Kiel in 1934, remake as De Witte van Sichem directed by Robbe De Hert in 1980; De man die zijn haar kort liet knippen (Johan Daisne) André Delvaux 1965; Mira ('De teleurgang van de Waterhoek' by Stijn Streuvels) Fons Rademakers 1971; Malpertuis (còn gọi là The Legend of Doom House) (Jean Ray [pen name of Flemish author who mainly wrote in French, or as John Flanders in Dutch]) Harry Kümel 1971; De loteling (Hendrik Conscience) Roland Verhavert 1974; Dood van een non (Maria Rosseels) Paul Collet & Pierre Drouot 1975; Pallieter (Felix Timmermans) Roland Verhavert 1976; De komst van Joachim Stiller (Hubert Lampo) Harry Kümel 1976; De Leeuw van Vlaanderen (Hendrik Conscience) Hugo Claus (a famous author himself) 1985; Daens ('Pieter Daens' by Louis Paul Boon) Stijn Coninx 1992; see also Filmarchief les DVD!s de la cinémathèque (in Dutch). Truy cập 2007-06-07.
  105. ^ A review of the Belgian cinema can be found at “Cinema”. .be Federal Portal. Federal government of Belgium. 2007. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2007. [liên kết hỏng]
  106. ^ “Fashion and the ‘Antwerp Six’”. Fashion Worlds, Dorset, UK. © 2004. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2007. 
  107. ^ Footnote: The Dutch word 'ommegang' is here used in the sense of an entirely or mainly non-religious procession, or the non-religious part thereof—see also its article on the Dutch-language Wikipedia; the Processional Giants of Brussels, Dendermonde and Mechelen mentioned in this paragraph are part of each city's 'ommegang'. The French word 'ducasse' refers also to a procession; the mentioned Processional Giants of Ath and Mons are part of each city's 'ducasse'.
  108. ^ “Processional Giants and Dragons in Belgium and France”. UNESCO. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2007. 
  109. ^ “Folklore estudiantin liégeois” (bằng French). University of Liège. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2008. 
  110. ^ Majendie, Matt (18 tháng 4 năm 2005). “Great, but there are greater” (stm). BBC Sport. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2007. “[the Author's] top five [cyclists] of all time: 1 Eddy Merckx, 2 Bernard Hinault, 3 Lance Armstrong, 4 Miguel Indurain, 5 Jacques Anquetil 
  111. ^ "Goalkeeping Greats" Goalkeepersaredifferent.com. Truy cập 29 tháng 6 năm 2008
  112. ^ " Benelux trio to apply to host the 2018 World Cup, ESPN Soccernet Global, truy cập 22 tháng 5 năm 2008 from 2018 FIFA World Cup
  113. ^ “The Michelin stars 2007 in Belgium”. Resto.be TM Dreaminvest. 2007. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2007. 
  114. ^ “Steak-frites”. Epicurious. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2007.  Republished from Van Waerebeek, Ruth; Robbins, Maria (October năm 1996). Everybody Eats Well in Belgium Cookbook. Workman Publishing. ISBN 1-56305-411-6 (Paperback), ISBN 0-7611-0106-3 (Cloth) Kiểm tra giá trị |isbn= (trợ giúp).  Đã bỏ qua tham số không rõ |month= (gợi ý |date=) (trợ giúp)
  115. ^ “Belgium”. Global Gourmet. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2007.  Republished from Van Waerebeek, Ruth; Robbins, Maria (October năm 1996). Everybody Eats Well in Belgium Cookbook. Workman Publishing. ISBN 1-56305-411-6 (Paperback), ISBN 0-7611-0106-3 (Cloth) Kiểm tra giá trị |isbn= (trợ giúp).  Đã bỏ qua tham số không rõ |month= (gợi ý |date=) (trợ giúp)
  116. ^ “Mussels”. Visit Belgium. Official Site of the Belgian Tourist Office in the Americas. 2005. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2007. —Note: Contrarily to what the text suggests, the season starts as early as July and lasts through April.
  117. ^ Whilst taste is highly subjective and individual, some international beer drinkers consider the Westvleteren 12 to be among their favourite beers. The majority of members of BeerAdvocate.com and RateBeer.com, two beer rating websites, consistently rate the Westvleteren 12 as their most enjoyable beer; the 8 and the Blonde also rank highly on both sites.
  118. ^ “InBev dividend 2006: 0.72 euro per share—infobox: About InBev” (Thông cáo báo chí). InBev. 24 tháng 4 năm 2007. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2007. “InBev is a publicly traded company (Euronext: INB) based in Leuven, Belgium. The company's origins date back to 1366, and today it is the leading global brewer by volume.” 

Nguồn chung trên mạng[sửa | sửa mã nguồn]

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

  • Arblaster, Paul (23 tháng 12 năm 2005). A History of the Low Countries. Palgrave Essential Histories . Palgrave Macmillan, New York. ISBN [[Đặc biệt:Nguồn sách/1-4039-4827-5 [Also edition (2005-12-23), Paperback 312pp, Palgrave Macmillan, New York, ISBN 1-4039-4828-3]|1-4039-4827-5 [Also edition (2005-12-23), Paperback 312pp, Palgrave Macmillan, New York, ISBN 1-4039-4828-3]]] Kiểm tra giá trị |isbn= (trợ giúp). 
  • Blom, J. C. H., Dutch State Institute for War Documentation, ed.; Lamberts, Emiel, Professor in Modern History KULeuven, ed.; Kennedy, James C., translator (May năm 1999). History of the Low Countries . Berghahn Books, Oxford/New York. ISBN [[Đặc biệt:Nguồn sách/1-5718-1084-6 [Also newer edition (2006-06-29), Paperback 516pp, Berghahn Books, New York, ISBN 1-84545-272-0]|1-5718-1084-6 [Also newer edition (2006-06-29), Paperback 516pp, Berghahn Books, New York, ISBN 1-84545-272-0]]] Kiểm tra giá trị |isbn= (trợ giúp).  Đã bỏ qua tham số không rõ |month= (gợi ý |date=) (trợ giúp)
  • Cammaerts, Émile L. (1921) [1913]. A History of Belgium from the Roman Invasion to the Present Day . D. Appleton and Co, New York. OCLC 1525559 ASIN B00085PM0A [Also editions [1913], Luân Đôn, OCLC 29072911; (1921) D. Unwin and Co., New York OCLC 9625246; also published (1921) as Belgium from the Roman invasion to the present day, The Story of the nations, 67, T. Fisher Unwin, Luân Đôn, OCLC 2986704 ASIN B00086AX3A]. 
  • Cook, Bernard A., Professor of History at Loyola University New Orleans, LA, United States (c2002 or tháng 5 năm 2004). Belgium: A History. Studies in Modern European History, Vol. 50 . Peter Lang Pub, New York. ISBN [[Đặc biệt:Nguồn sách/0-8204-5824-4 Ib. e-book (2004) NetLibrary, Boulder, CO, United States, ISBN 0-8204-7283-2 [Also print edition (2004-06-30 or 2005), ISBN 0-8204-7647-1]|0-8204-5824-4 Ib. e-book (2004) NetLibrary, Boulder, CO, United States, ISBN 0-8204-7283-2 [Also print edition ([http://isbndb.com/d/book/belgium_a_history.html 2004-06-30] or [http://www.peterlang.com/index.cfm?vID=67647&vLang=E&vHR=1&vUR=3&vUUR=4&vNoHB=True 2005]), ISBN 0-8204-7647-1]]] Kiểm tra giá trị |isbn= (trợ giúp). 
  • de Kavanagh Boulger, Demetrius C. (2001-06-28 or 2006-03-30). The History of Belgium: Part 1. Cæsar to Waterloo. Elibron Classics . Adamant Media (Delaware corporation), Boston, MA, United States. ISBN [[Đặc biệt:Nguồn sách/1-4021-6714-8 [Facsimile reprint of a 1902 edition by the author, Luân Đôn]|1-4021-6714-8 [Facsimile reprint of a 1902 edition by the author, Luân Đôn]]] Kiểm tra giá trị |isbn= (trợ giúp). Ib. (2001-06-28 or 2006-03-30). Ib. Part 2. 1815–1865. Waterloo to the Death of Leopold I. Ib. Ib. ISBN [[Đặc biệt:Nguồn sách/1-4021-6713-X [Facsimile reprint of a 1909 edition by the author, Luân Đôn]|1-4021-6713-X [Facsimile reprint of a 1909 edition by the author, Luân Đôn]]] Kiểm tra giá trị |isbn= (trợ giúp). 
  • Fitzmaurice, John (March năm 1996). The Politics of Belgium: A Unique Federalism. Nations of the modern world . Westview Press, Boulder, CO, USA. ISBN 0-8133-2386-X. OCLC 30112536.  Đã bỏ qua tham số không rõ |month= (gợi ý |date=) (trợ giúp)
  • Kossmann-Putto, Johanna A.; Kossmann Ernst H.; Deleu Jozef H. M., ed.; Fenoulhet Jane, translator [of: (1987). De Lage Landen: geschiedenis van de Noordelijke en Zuidelijke Nederlanden. Vlaams-Nederlandse Stichting Ons Erfdeel, Rekkem] (January năm 1993) [1987]. The Low Countries: History of the Northern and Southern Netherlands (ấn bản 3). Flemish-Netherlands Foundation "Stichting Ons Erfdeel", Rekkem, Belgium. ISBN [[Đặc biệt:Nguồn sách/9-0708-3120-1 [several editions in English, incl. (1997) 7th ed.]|9-0708-3120-1 [several editions in English, incl. (1997) 7th ed.]]] Kiểm tra giá trị |isbn= (trợ giúp).  Đã bỏ qua tham số không rõ |month= (gợi ý |date=) (trợ giúp)

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

Xem thêm: section References, subsection General online sources
Chính phủ
Thông tin chung

Bản mẫu:Các chủ đề Bỉ

Du lịch
Khác