Cộng hòa Nagorno-Karabakh
Cộng hòa Nagorno-Karabakh Լեռնային Ղարաբաղի Հանրապետություն Lernayin Gharabaghi Hanrapetutyun |
|||||
---|---|---|---|---|---|
|
|||||
Quốc ca | |||||
Azat u ankakh Artsakh (Tự do và độc lập cho Artsakh) | |||||
Hành chính | |||||
Chính phủ | Cộng hòa | ||||
Tổng thống | Bako Sahakyan | ||||
Thủ tướng | Arayik Harutyunyan | ||||
Ngôn ngữ chính thức | Tiếng Armenia | ||||
Thủ đô | Stepanakert |
||||
Địa lý | |||||
Diện tích | 11458 km² 4,424 mi² |
||||
Múi giờ | UTC+4; mùa hè: UTC+5 | ||||
Lịch sử | |||||
Không được công nhận (độc lập từ Azerbaijan)
|
|||||
10 tháng 12 năm 1991 | Trưng cầu dân ý | ||||
6 tháng 1 năm 1992 | Tuyên bố độc lập | ||||
Dân số ước lượng (2007) | 138.800 người | ||||
Đơn vị tiền tệ | dram Armenia (AMD) (AMD ) |
||||
Thông tin khác | |||||
Tên miền Internet | .nkr.am | ||||
hiến pháp bảo đảm quyền sử dụng nhiều ngôn ngữ khác nhau |
Nagorno-Karabakh, tên chính thức là Cộng hòa Nagorno-Karabakh (NKR; tiếng Armenia: Լեռնային Ղարաբաղի Հանրապետություն Lernayin Gharabaghi Hanrapetut’yun), Cộng hòa Artsakh (tiếng Armenia: Արցախի Հանրապետություն Arts'akhi Hanrapetut’yun),[1] là một nước cộng hòa ở Nam Kavkaz chỉ được ba quốc gia không phải thành viên Liên Hiệp Quốc công nhận.[2] Cộng hòa Nagorno-Karabakh kiểm soát hầu hết lãnh thổ của tỉnh tự trị Nagorno-Karabakh cũ và một số khu vực xung quanh, do vậy có được một đoạn biên giới với Armenia ở phía tây và Iran ở phía nam.[3]
Khu vực Nagorno-Karabakh có dân cư chủ yếu là người Armenia trở thành vấn đề tranh chấp giữa Armenia và Azerbaijan khi hai quốc gia độc lập từ Đế quốc Nga vào năm 1918. Sau khi Liên Xô thiết lập quyền kiểm soát đối với khu vực, họ tạo ra tỉnh tự trị Nagorno-Karabakh (NKAO) thuộc thành phần Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Azerbaijan vào năm 1923. Vào những năm cuối cùng của Liên Xô, khu vực lại trở thành một vấn đề tranh chấp giữa Armenia và Azerbaijan. Năm 1991, một cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức tại tỉnh tự trị Nagorno-Karabakh và khu vực Shahumian lân cận với kết quả là hành động tuyên bố độc lập. Xung đột sắc tộc quy mô lớn dẫn đến Chiến tranh Nagorno-Karabakh 1991–1994, kết thúc với thỏa thuận ngừng bắn và tạo ra đường biên giới như hiện nay.
Cộng hòa Nagorno-Karabakh là một nền dân chủ tổng thống chế với một quốc hội đơn viện. Quốc gia này có nhiều núi, với cao độ trung bình là 1.097 mét (3.599 ft) trên mực nước biển. Cư dân Cộng hòa Nagorno-Karabakh chủ yếu là Ki-tô hữu, hầu hết trong số đó phụ thuộc Giáo hội Tông truyền Armenia. Một vài tu viện có tính lịch sử được các du khách biết đến, hầu hết là trong cộng đồng người Armenia lưu vong, do hầu hết hoạt động du lịch chỉ có thể tiến hành giữa Armenia và Nagorno-Karabakh.
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ “Constitution of the Nagorno-Karabakh Republic. Chapter 1, article 1.2”.
- ^ About Abkhazia – Abkhazia.info.
- ^ “Official website of the President of the Nagorno Karabakh Republic. General Information about NKR”. President.nkr.am. 1 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2012.
Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]
Phương tiện liên quan tới Nagorno-Karabakh tại Wikimedia Commons
|
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Cộng hòa Nagorno-Karabakh |