Sénégal

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm
République du Sénégal
Flag of Senegal.svg Coat of arms of Senegal.svg
(Cờ Sénégal) (Quốc hiệu Sénégal)
Khẩu hiệu quốc gia: Un Peuple, Un But, Une Foi
(tiếng Pháp: Một dân tộc, một mục đích, một niềm tin)
LocationSenegal.png
Ngôn ngữ chính thức Tiếng Pháp
Thủ đô Dakar
Tổng thống Macky Sall
Thủ tướng Aminata Touré
Diện tích
 - Tổng
 - % Nước
Hạng 87
196.723 km²
2,1%
Dân số
 - Tổng (2009)
Mật độ
Hạng 67
13.711.597
69,7/km²
GDP (PPP) 23.274 triệu dollar Mỹ (Hạng 109)
PPP trên đầu người $1.772 (Hạng 149)
GDP danh nghĩa 2009 13.472 triệu dollar Mỹ
GDP trên người 2009 1,026 dollar Mỹ
HDI (2010) 0,411 (Hạng 144) – low
Độc lập
 - Ngày
Từ Pháp
20 tháng 6, 1960
Tiền tệ CFA Franc
Múi giờ UTC 0
Quốc ca Pincez Tous vos Koras, Frappez les Balafons
Miền Internet .sn
Calling Code 221

Sénégal (tên chính thức Cộng hoà Sénégal) là một quốc gia phía Nam của sông Sénégal nằm ở Tây châu Phi. Sénégal có đường biên giới là biển Đại Tây Dương cho đến phía Tây, Mauritania ở phía Bắc, Mali ở phía Đông, GuinéeGuiné-Bissau ở phía Nam. Gambia nằm trong Sénégal, theo con sông Gambia hơn 300 km. Phía nhô Verde là những hòn đảo nhỏ nằm ngoài bờ biển Sénégal 560 km.

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Lịch sử Sénégal

Những khám phá khảo cổ học trên cả vùng này cho thấy Sénégal từng là nơi có người sinh sống từ thời tiền sử. Hồi giáo, tôn giáo chính tại Sénégal, lần đầu tiên tới đây vào thế kỷ 11. Ngày nay, 95% dân số Sénégal là người Hồi giáo. Trong thế kỷ thứ 13 và 14, vùng này nằm dưới ảnh hưởng của các đế chế Mandingo ở phía đông; Đế chế Jolof của Sénégal cũng được lập ra vào thời gian này. Nhiều cường quốc Châu Âu đã tới đây từ thế kỷ thứ 15 trở về sau, và chỉ chấm dứt khi Pháp kiểm soát hoàn toàn địa điểm khi ấy đã trở thành một đầu mối buôn bán nô lệ quan trọng. Nước này giành lại độc lập từ Pháp ngày 4 tháng 4 năm 1960.

Tháng 1 năm 1959, Sénégal và Sudan thuộc Pháp hợp nhất thành lập ra Liên bang Mali, và đã trở thành hoàn toàn độc lập ngày 20 tháng 6, 1960, nhờ thỏa thuận chuyển giao quyền lực được ký với Pháp ngày 4 tháng 4, 1960. Vì những khó khăn chính trị trong nước, Liên bang tan rã ngày 20 tháng 8. Sénégal và Sudan (được đổi tên thành Cộng hoà Mali) tuyên bố độc lập. Léopold Senghor được bầu làm tổng thống đầu tiên của Sénégal vào tháng 8 năm 1960.

Sau khi Liên bang Mali tan vỡ, Tổng thống Senghor và Thủ tướng Mamadou Dia cùng cầm quyền theo một hệ thống nghị viện. Tháng 12 năm 1962, sự đối đầu chính trị của họ dẫn tới một cuộc đảo chính của Thủ tướng Dia. Cuộc đảo chính đẫm máu bị dẹp yên, Dia bị bắt và bị cầm tù, Sénégal chấp nhận một hiến pháp mới trao nhiều quyền cho Tổng thống. Năm 1980, Tổng thống Senghor quyết định giã từ chính trường, trao lại quyền lực cho người kế nhiệm đã được lựa chọn từ trước là Abdou Diouf năm 1981.

Sénégal cùng Gambia cùng tham gia vào liên đoàn chỉ mang tính danh nghĩa Senegambia ngày 1 tháng 2, 1982. Tuy nhiên, liên đoàn này đã giải tán năm 1989. Dù có những cuộc đàm phán hòa bình, một nhóm ly khai phía nam tại vùng Casamance đã tiến hành các cuộc xung đột rời rạc với các lực lượng chính phủ từ năm 1982. Sénégal có lịch sử tham gia vào các đội quân gìn giữ hòa bình quốc tế khá lâu dài.

Abdou Diouf làm tổng thống giai đoạn 1981 và 2000. Ông thúc đẩy sự tham gia rộng lớn hơn vào chính trị, giảm bớt sự tham gia của chính phủ vào kinh tế, mở rộng quan hệ đối ngoại của Sénégal, đặc biệt với các nước phát triển. Tình hình chính trị trong nước thỉnh thoảng lại bùng phát với những cuộc bạo động đường phố, căng thẳng biên giới và bạo lực từ phong trào ly khai ở vùng Casamance phía nam. Tuy nhiên, những cam kết dân chủ và nhân quyền của Sénégal cũng được tăng cường. Diouf làm tổng thống bốn nhiệm kỳ liên tục. Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2000, lãnh đạo đối lập Abdoulaye Wade đã đánh bại Diouf trong một cuộc bầu cử được các quan sát viên quốc tế cho là tự do và công bằng. Sénégal trải qua cuộc chuyển giao quyền lực trong hòa bình lần thứ hai, và là lần thứ nhất từ đảng này sang đảng khác.

Ngày 30 tháng 12, 2004 Tổng thống Abdoulaye Wade thông báo ông sẽ ký một hiệp ước hòa bình với nhóm ly khai tại vùng Casamance.

Chính trị[sửa | sửa mã nguồn]

Đương kim tổng thống Macky Sall.
Bài chính về chính trị và chính quyền của Sénégal có thể tìm đọc tại Loạt bài về chính trị và chính quyền của Sénégal.

Sénégal là một nước cộng hòa trong đó tổng thống được trao nhiều quyền lực; tổng thống được bầu với nhiệm kỳ bảy năm, năm 2001 đã được sửa đổi thành nhiệm kỳ năm năm, theo phổ thông đầu phiếu. Tổng thống hiện tại là Macky Sall.

Sénégal có 65 đảng chính trị đóng góp vào sự phát triển của đất nước thông qua việc cùng hợp tác tiến tới một sự chuyển tiếp tới một nền dân chủ của đất nước, và thập chí trong số các nước phát triển tại lục địa Châu Phi. Nghị viện một viện là Quốc hội có 120 thành viên được bầu cử riêng biệt với cuộc bầu cử tổng thống. Sénégal có một nhánh lập pháp, một nhánh hành pháp khá độc lập và công bằng. Tòa án cấp cao nhất của nước này là hội đồng hiến pháp, và tòa án công lý, các thành viên của hai tòa án này do tổng thống chỉ định.

Các hoạt động chính phủ Sénégal khá minh bạch. Mức độ tham nhũng kinh tế gây cản trở tới sự phát triển kinh tế đất nước khá thấp. Ngày nay Sénégal có một nền văn hóa chính trị dân chủ, là một trong những hình mẫu chuyển tiếp dân chủ thành công nhất tại Châu Phi.

Các quan chức hành chính địa phương đều được tổng thống chỉ định và chịu trách nhiệm trước tổng thống.

Thể chế[sửa | sửa mã nguồn]

Cộng hoà Tổng thống. Tổng thống là Nguyên thủ quốc gia kiêm tổng chỉ huy các lực lượng vũ trang và được bầu thông qua tuyển cử trực tiếp, nhiệm kỳ 7 năm. Quốc hội gồm 120 ghế được bầu cử trực tiếp, nhiệm kỳ 5 năm.

Đảng phái chính trị[sửa | sửa mã nguồn]

Sénégal thực hiện chế độ đa đảng: Đảng cầm quyền hiện nay là Đảng Dân chủ Sénégal (Parti Démocratique). Đảng đối lập chính là đảng Xã hội (Parti Socialiste).

Từ đầu những năm 1980, Senegal phải đối phó với phong trào ly khai ở vùng Casamance do Đảng Phong trào các lực lượng dân chủ Casamance (MFDC) khởi xướng. Từ giữa những năm 1990, phong trào ly khai đã phát triển thành xung đột vũ trang. Chính phủ vẫn làm chủ được tình hình. Từ tháng 1 năm 1999, tiến trình hoà bình đã được đưa ra. Tháng 3 năm 2001, thoả thuận ngừng bắn đã được ký kết giữa Chính phủ và MFDC. Tình hình chính trị tại Sénégal hiện nay tương đối ổn định.

Chính sách ngoại giao[sửa | sửa mã nguồn]

Sénégal là thành viên Liên Hợp Quốc, UA (trước là OUA), Phong trào không liên kết, ICO, Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp và hàng chục tổ chức quốc tế và khu vực khác.

Hiện nay, Sénégal theo đuổi đường lối đối ngoại đa dạng hoá, mở cửa nhằm tranh thủ vốn và kỹ thuật. Sénégal quan hệ mật thiết với phương Tây, nhất là Pháp. Pháp là nước viện trợ nhiều nhất cho Sénégal, và hiện vẫn cung cấp chuyên gia kỹ thuật, quân sự cho Sénégal. Hiện nay, Pháp với Hiệp định phòng thủ ký với Sénégal từ khi quốc gia này giành độc lập vẫn luôn có 1.200 quân tại đây. Từ cuối những năm 1980, Mỹ bắt đầu tăng cường quan hệ với Sénégal trong các lĩnh vực kinh tế, đào tạo. Hiện nay, trong khuôn khổ của chương trình " Sáng kiến đối phó với khủng hoảng ở Châu Phi của Mỹ"(ACRI-2001), Mỹ đã gửi các chuyên gia quân sự tới giúp Sénégal đào tạo các binh lính gìn giữ hoà bình.

Sénégal chủ trương duy trì quan hệ láng giềng tốt với Mauritania, GambiaGuinée - Bissau. Tuy vậy, do xung đột ở vùng Casamance, vấn đề người tỵ nạn Sénégal và các tranh chấp lãnh thổ chưa được giải quyết, quan hệ giữa Sénégal và các nước này có lúc căng thẳng.

Địa lý[sửa | sửa mã nguồn]

nhỏ
Bài chi tiết: Địa lý Sénégal

Sénégal nằm ở phía tây lục địa Châu Phi. Đất đai Sénégal gồm chủ yếu những đồng bằng cát lăn phía tây Sahel kéo dài tới tận vùng đồi thấp phía đông nam. Đây là nơi có điểm cao nhất Sénégal, một điểm vô danh gần Nepen Diakha độ cao 581 m. Biên giới phía bắc là Sông Sénégal, các con sông khác gồm GambiaSông Casamance. Thủ đô Dakar nằm trên bán đảo Cap-Vert, điểm cực tây của lục địa Châu Phi.

Các túp lều vùng nông thôn

Khí hậu địa phương là nhiệt đới với các mùa nóng và ẩm xác định do gió mùa đông từ phía đông bắc và gió mùa hè từ phía tây nam gây ra. Lượng mưa hàng năm tại Dakar vào khoảng 24 inch (600 mm) chủ yếu diễn ra trong khoảng tháng 6 tới tháng 10 khi nhiệt độ trung bình tối đa là 27 °C; nhiệt độ tối thiểu trong khoảng tháng 12 đến tháng 2 là 17 °C. Nhiệt độ trong đất liền cao hơn so với dọc bờ biển và lượng mưa tăng nhiều ở các vùng phía nam, vượt quá 1500 mm hàng năm ở một số vùng.

Kinh tế[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Kinh tế Sénégal
Những người bán hàng trên đường phố

Tháng 1 năm 1994, Sénégal đã tiến hành một cuộc cải cách kinh tế sâu rộng và đầy tham vọng với sự hỗ trợ của cộng đồng các nước cho vay quốc tế. Cuộc cải cách bắt đầu với việc phá giá 50% đồng tiền tệ Sénégal, đồng franc CFA, vốn có tỷ giá cố định so với đồng franc cũ của Pháp và hiện nay là đồng euro. Sự kiểm soát và hỗ trợ giá cả của chính phủ dần được bãi bỏ. Sau khi kinh tế giảm sút 2.1% năm 1993, Sénégal đã có một bước chuyển quan trọng, nhờ chương trình cải cách đó, với tăng trưởng GDP thực tế hàng năm ở mức 5% trong giai đoạn 1995-2001. Lạm phát hàng năm từng chưa tới 1%, nhưng đã tăng tới ước tính 3.3% năm 2001. Đầu tư tăng trưởng vững chắc từ mức 13.8% GDP năm 1993 tới 16.5% năm 1997.

Với tư cách một thành viên của Liên minh Kinh tế và Tiền tệ Tây Phi (WAEMU), Sénégal hiện đang nỗ lực hội nhập sâu hơn nữa vào khu vực với một mức thuế quan thống nhất. Sénégal cũng đã thực hiện kết nối Internet toàn bộ năm 1996, tạo ra một cuộc bùng nổ các dịch vụ dựa trên công nghệ thông tin nhỏ. Hoạt động tư nhân hiện chiếm 82% GDP. Những hậu quả tiêu cực là việc Sénégal phải đối mặt với những vấn đề kinh niên của đô thị như thất nghiệp, bất bình đẳng kinh tế xã hội, thanh thiếu niên phạm tội, và nghiện ma tuý—tương tự như vấn đề sinh ra từ các tầng lớp xã hội khác nhau tại vùng đô thị các nước phát triển/công nghiệp.

Nhân khẩu[sửa | sửa mã nguồn]

Dân số Sénégal 1961-2003
Bài chi tiết: Nhân khẩu Sénégal

Sénégal có dân số khoảng 11 triệu người, khoảng 70% trong số đó sống tại vùng nông tôn. Mật độ dân số tại các vùng này trong khoảng từ 77 người trên km² ở vùng trung tây cho tới 2 người trên km² tại các vùng khô cằn phía đông.

Sắc tộc[sửa | sửa mã nguồn]

Sénégal có nhiều nhóm sắc tộc khác nhau và vì thế có nhiều ngôn ngữ được sử dụng tại nước này. Người Wolof là nhóm sắc tộc lớn nhất tại Sénégal chiếm 43% dân số; người Serer (15%) là nhóm đứng thứ hai, tiếp sau là các nhóm sắc tộc khác gồm Fula (24%), Lebou (10%), người Jola (4%), người Mandinka (3%), Toucouleur, Soninke, Bassari, ngoài ra còn có nhiều cộng đồng sắc tộc nhỏ khác nữa. Khoảng 50.000 người Châu Âu (chủ yếu là người Pháp), một số người Mauritani và người Li ban hiện đang sống tại Sénégal, chủ yếu trong các thành phố. Trong các thành phố đó còn có một số người thuộc dân tộc Việt Nam. Những người lai da đen và Châu Âu (chủ yếu là người Pháp và người Bồ Đào Nha) có nguồn gốc (người Bồ Đào Nha lai và người da đen gồm một số người Cape Verde và sống tại Casamance) cũng sống tại đó. Tiếng Pháp là ngôn ngữ quốc gia nhưng được một thiểu số nhỏ từng tốt nghiệp các trường học thuộc địa sử dụng thường xuyên. Đa phần các dân tộc sử dụng cả ngôn ngữ của riêng mình, như người Wolof, và những người lai Bồ Đào Nha/da đen nói các loại ngôn ngữ Bồ Đào Nha Creole. Những người dân gốc Sénégal nói tiếng Kriol, ngôn ngữ này cũng được sử dụng tại guinea-Bissau, trong khi những người dân Cape Verde nói thứ ngôn ngữ lai da đen (creole) của họ.

Tôn giáo[sửa | sửa mã nguồn]

Hồi giáo là tôn giáo chính ở nước này với khoảng 94% dân số là tín đồ; cộng đồng Thiên chúa giáo chiếm 4% dân số gồm Cơ đốc giáo La Mã các phái Tin lành khác.

Đạo Hồi[sửa | sửa mã nguồn]

Đại thánh đường Hồi giáo Ouakam, Sénégal

Các cộng đồng Hồi giáo nói chung được tổ chức theo nhiều cấp bậc Sufi Hồi giáo và theo gia đình, do một khalif (xaliifa trong tiếng Wolof, từ tiếng Ả rập khalīfa) đứng đầu, đây thường là con cháu trực hệ của người thành lập ra nhóm đó. Hai cấp bậc Sufi lớn nhất và có ảnh hưởng nhất tại Sénégal là Tijaniyya, những phân nhóm lớn nhất của họ ở tại các thành phố TivaouaneKaolack, và Murīdiyya (Murid), tại thành phố Touba. Halpulaar, một nhóm sắc tộc trải rộng dọc theo Sahel từ Tchad tới Sénégal, chiếm 20% dân số Sénégal, là nhóm đầu tiên cải theo Đạo Hồi. Halpulaar, gồm nhiều nhóm dân tộc Fula, được gọi là PeulsToucouleur tại Sénégal. Nhiều Toucouleurs, Halpulaar tại vùng Châu thổ Sông Sénégal ở phía bắc, đã cải theo Hồi giáo từ khoảng một nghìn năm trước và sau này góp phần vào việc truyền bá Đạo Hồi ra khắp Sénégal. Tuy nhiên, đa số các cộng đồng phía nam Châu thổ Sông Sénégal, không phải đã hoàn toàn Hồi giáo hóa cho tới tận cuối thế kỷ mười chín, đầu thế kỷ hai mươi. Khoảng giữa thế kỷ mười chín, Hồi giáo trở thành lá cờ kháng chiến chống lại những kẻ thống trị cũ và chủ nghĩa thực dân Pháp, và các lãnh đạo Tijānī là Al-Hajj Umar TallMàbba Jaxu Ba đã thành lập ra những quốc gia Hồi giáo tuy tồn tại chỉ một thời gian ngắn nhưng có nhiều ảnh hưởng trong dân chúng, tuy vậy cả hai người đều đã bỏ mạng trong các trận đánh với Pháp và đế chế của họ lại bị người Pháp sáp nhập.

Sự mở mang của các trường Côral chính thức (được gọi là daara trong tiếng Wolof) trong thời kỳ thuộc địa đã tăng mạnh sau nỗ lực của Tijaniyya. Trong cộng đồng Murid, vốn nhấn mạnh trên sắc tộc hơn nghiên cứu văn chương Côral, thuật ngữ daara thường được áp dụng cho những nhóm người phục vụ một cách thành kính cho một lãnh đạo tôn giáo. Các nhóm Hồi giáo khác gồm nhóm thứ bậc lâu đời hơn là QādiriyyaLayene của Sénégal, nhóm này phổ biến ở vùng bờ biển Lebu. Ngày nay đa phần trẻ em Sénégal học tại các daara trong nhiều năm, gắng nhớ càng nhiều kinh Côral càng tốt. Một số chúng tiếp tục học tôn giáo tại các trường Ả rập chính thức (majlis) hay tại các trường tư Ả rập đang ngày càng phát triển hoặc các trường công sử dụng tiếng Pháp-Ả rập.

Ki-tô giáo[sửa | sửa mã nguồn]

Các cộng đồng Cơ đốc giáo La Mã nhỏ hiện diện chủ yếu ở vùng bờ biển Serer, người JolaBalant và ở phía đông Sénégal bên trong cộng đồng BassariConiagui. Tại Dakar, các nghi thức Cơ đốc giáo và Tin Lành cũng được một bộ phận người nhập cư Liban, Cape verd, Châu Âu và Châu Mỹ thiến hành, và trong một số cộng đồng Châu Phi cũng như các cộng đồng khác. Dù Hồi giáo là tôn giáo chính của Sénégal, tổng thống đầu tiên của nước này, Léopold Sédar Senghor, là một tín đồ Cơ đốc giáo.

Các tôn giáo khác[sửa | sửa mã nguồn]

Các tôn giáo khác ở Sénégal chủ yếu gồm thuyết duy linh, được một số tín đồ Do TháiPhật giáo tin theo. Đạo Do Thái là tôn giáo đương nhiên có của bất kỳ người Do Thái nào, Phật giáo có một số tín đồ là người Việt Nam.

Các vùng hành chính[sửa | sửa mã nguồn]

Các bài chính: Các vùng ở Sénégal, Các khu vực tại Sénégal Sénégal được chia thành 11 vùng (régions), và sau đó được chia nhỏ tiếp thành 34 khu (départements), 94 quận, và nhiều cộng đồng.

Các vùng gồm:

Các khu: xem Các khu vực Sénégal

Các quận: xem Các quận Sénégal

Văn hóa[sửa | sửa mã nguồn]

Trên bãi biển tại Mbour
Chợ Dakar
Bài chi tiết: Văn hóa Sénégal

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

Chính phủ

Tin tức

Tổng quan

Bản đồ

Âm nhạc

Du lịch

Other

Dân tộc

MFDC