Thụy Điển

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm
Vương quốc Thuỵ Điển
Konungariket Sverige (tiếng Thụy Điển)
Flag of Sweden.svg Greater coat of arms of Sweden.svg
Quốc kỳ Huy hiệu
Vị trí của Thụy Điển
Khẩu hiệu
För Sverige i tiden
Quốc ca
Du gamla, Du fria de facto ²
Hành chính
Chính phủ Quân chủ lập hiến
Quốc vương
Thủ tướng
Carl XVI Gustaf
Stefan Löfven
Ngôn ngữ chính thức Tiếng Thụy Điển (de facto) ³
Thủ đô Stockholm
59°21′B, 18°4′Đ
Thành phố lớn nhất Stockholm
Địa lý
Diện tích 449.964 km² (hạng 54)
Diện tích nước 8,67% %
Múi giờ CET (UTC+1); mùa hè: CEST (UTC+2)
Lịch sử
Ngày thành lập Ngày 6 tháng 6
Dân cư
Dân số (2009) 9 373 379[2] người
Mật độ 20 người/km² (hạng 155)
Kinh tế
GDP (PPP) (2005) Tổng số: 381,469 tỷ Mỹ kim
HDI (2004) 0,949 cao
Đơn vị tiền tệ Krona (SEK)
Thông tin khác
Tên miền Internet .se
¹ För Sverige i tiden (tiếng Thụy Điển: Cho Thụy Điển – Theo thời gian) được Carl XVI Gustaf sử dụng là khẩu hiệu cá nhân làm vai quốc vương.
² Không có nghị quyết nào tuyên bố rằng bản nhạc này là quốc ca.
³ Xem đoạn về ngôn ngữ.

Thụy Điển (tiếng Thụy Điển: Sverige), quốc danh hiện tại là Vương quốc Thụy Điển (Konungariket Sverige) bằng tiếng Thụy Điển) là một vương quốc ở Bắc Âu giáp Na Uy ở phía Tây và Phần Lan ở phía Đông Bắc, nối với Đan Mạch bằng cầu Öresund ở phía Nam, phần biên giới còn lại giáp Biển BalticBiển Kattegat.

Với diện tích 449 964 km², Thụy Điển là nước lớn thứ ba trong Liên minh châu Âu, với dân số 9.4 triệu người. Thụy Điển có mật độ dân số thấp với 21 người/ km² nhưng lại tập trung cao ở nửa phía Nam của đất nước. Khoảng 85% dân số sống ở thành thị và theo dự đoán con số này sẽ tăng dần vì quá trình đô thị hóa đang diễn ra.[3] Thủ đô của Thụy Điển là Stockholm, đây cũng là thành phố lớn nhất nước. Thành phố lớn thứ hai là Göteborg với dân số khoảng 500.000 người và 900.000 người trên tổng vùng. Thành phố lớn thứ ba là Malmö với dân số khoảng 260.000 người và 650.000 người ở tổng vùng.

Đất nước Thụy Điển độc lập và thống nhất nổi lên vào thời Trung Cổ. Vào thế kỷ 17 Thụy Điển mở rộng lãnh thổ và tạo nên Đế quốc Thụy Điển. Hầu hết lãnh thổ ngoài bán đảo Scandinavia bị mất vào thế kỷ 1819. Nửa phía Đông của Thụy Điển, Phần Lan ngày nay, rơi vào tay Đế quốc Nga năm 1809. Cuộc chiến tranh cuối cùng Thụy Điển tham gia trực tiếp vào năm 1814, khi Thuỵ Điển sử dụng quân sự ép Na Uy nhập vào Liên minh Thuỵ Điển và Na Uy, một liên minh tồn tại đến tận năm 1905. Kể từ đó, Thuỵ Điển là một nước hòa bình, áp dụng chính sách đối ngoại không liên kết vào thời bình và chính sách trung lập thời chiến.[4]

Ngày nay, Thuỵ Điển là một nước quân chủ lập hiến với thể chế đại nghị và một nền kinh tế phát triển cao. Thụy Điển đứng đầu về chỉ số dân chủ trên thế giới theo tạp chí The Economist và đứng thứ bảy trong Liên hiệp quốc về chỉ số phát triển con người. Thụy Điển là thành viên của Liên minh châu Âu vào năm 1995 và là thành viên của OECD.

Nguồn gốc quốc hiệu[sửa | sửa mã nguồn]

Danh xưng "Thụy Điển" trong tiếng Việt bắt nguồn từ "瑞典" (bính âm: Ruìdiǎn), dịch danh Trung văn của quốc hiệu Thụy Điển.

Quốc kỳ và Quốc huy[sửa | sửa mã nguồn]

Quốc kỳ[sửa | sửa mã nguồn]

Quốc kỳ Thuỵ Điển hình chữ nhật, nền cờ màu lam, chữ thập màu vàng chia mặt cờ thành 4 hình chữ nhật màu lam. Diện tích của 2 hình chữ nhật trên và dưới bên trái bằng nhau, 2 hình chữ nhật trên và dưới bên phải cũng có diện tích bằng nhau. Hai màu lamvàng bắt nguồn từ màu của Hoàng gia Thuỵ Điển. Lá cờ chữ thập màu vàng từng là quân kỳ của hải quân Hoàng gia Thuỵ Điển. Ngày 22/06/1906 chính thức quy định lá quốc kỳ này.

Quốc huy[sửa | sửa mã nguồn]

Lai lịch quốc huy Thuỵ Điển có thể truy nguyên về những năm 1408-1470. Phía trên tấm áo choàng là chiếc vương miện, mặt tấm lá chắn trong tấm áo choàng có màu lam. Một chữ thập màu vàng chia mặt tấm lá chắn thành 4 phần: phần trên bên trái và phần dưới bên phải mỗi phần có 3 phần chiếc vương miện màu vàng, phần trên bên phải và phần dưới bên trái có con sư tử vàng đội vương miện vàng thè lưỡi đỏ. Trung tâm lá chắn lớn có một lá chắn tương đối nhỏ, mặt tấm lá chắn chia 2 phần phải và trái: mặt bên trái do các sọc chéo 3 màu lam, trắng bạc, đỏ và một chiếc bình vàng tạo thành, mặt bên phải có vẽ một tháp chuông kiểu lô cốt và một con chim ưng vàng. Hình trên tấm lá chắn nhỏ là phù hiệu của Hoàng Gia Thuỵ Điển khoảng năm 1200. Phía trên tấm lá chắn là một chiếc vương miện, 2 bên là 2 con sư tử vàng đầu đội vương miện ngoảnh về phía sau đỡ lấy. Sư tử đứng trên đế tấm lá chắn, đuôi cong hướng lên trên, thè lưỡi đỏ. Xung quanh tấm lá chắn là huân chương trang trí. Năm 1908 chính thức chế định quốc huy dạng tấm áo choàng này.

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Vào cuối thời kỳ băng hà (khoảng 12.000 TCN) những người đầu tiên đã bắt đầu di dân đến các vùng ven biển bằng đường bộ ở giữa ĐứcScania (miền Nam của Thuỵ Điển ngày nay). Các di chỉ khảo cổ lâu đời nhất có niên đại vào khoảng 13.000 năm trước đây được tìm thấy ở vùng Scania. Khi con đường bộ này biến mất vào khoảng 5.000 năm TCN miền trung và vùng ven biển của Thụy Điển đã có dân cư. Cũng theo các di chỉ khảo cổ, trong thời gian từ Công Nguyên cho đến năm 400 đã có một nền thương mại phát đạt với Đế quốc La Mã. Vùng Scandinavia được nhắc đến lần đầu tiên trong các văn kiện của La Mã từ năm 79 như trong Naturalis Historiae của Gaius Plinius Secundus hay trong De Origine et situ Germanorum của Gaius Cornelius Tacitus.

Đầu thế kỷ 11 vương quốc này là một liên minh lỏng lẻo của các vùng tự trị với các hội đồng, luật lệ và tòa án riêng biệt, chỉ được liên kết với nhau qua cá nhân của vị vua có quyền lực tương đối ít. Vương quốc thật ra được thành lập trong thời kỳ Trung Cổ, giữa năm 10001300, đồng thời với việc theo Công giáo. Sau năm 1000 danh hiệu vua bắt đầu thành hình ở Götaland (miền nam Thuỵ Điển) và ở Svealand (miền trung Thuỵ Điển). Ban đầu chức vị này thường hay bị tranh cãi, không bền vững và thường chỉ có tầm quan trọng trong vùng. Dưới thời của Birger Jarl, người có quan hệ mật thiết với anh rể của ông là vua Erik Eriksson, bắt đầu có những cải cách xã hội và chính trị rộng lớn, mang lại một quyền lực tập trung và một xã hội được tổ chức theo gương của các quốc gia phong kiến châu Âu.

Năm 1388 nữ hoàng Đan Mạch Margarethe I được một phái quý tộc chống đối công nhận là người trị vì Thuỵ Điển. Năm 1397 cháu của Margarethe là Erik của Pommern lên ngôi vua trị vì 3 vương quốc Đan Mạch, Na Uy và Thuỵ Điển, thành lập Liên minh Kalma.

Trận Poltava năm 1709.

Năm 1611, sau khi vua cha qua đời, Gustav II Adolf lên ngôi lúc 17 tuổi, bắt đầu thời kỳ Thuỵ Điển vươn lên trở thành cường quốc. Ông tham chiến trong nhiều cuộc chiến tranh thời đó.[5] Vào năm 1700, ba nước láng giềng là Đan Mạch, Ba LanNga mở đầu cuộc Đại chiến Bắc Âu (1700-1721) chống lại Thuỵ Điển. Vua Karl XII của Thụy Điển lần lượt đánh tan tác quân Đan Mạch, quân Nga và cả quân Ba Lan.[6] Nhưng vào năm 1709, một vị vua lớn trong lịch sử NgaPyotr Đại Đế đánh tan tác quân Thuỵ Điển trong trận Poltava (1709).[7] Vua Karl XII chết vào năm 1718, và rồi Thuỵ Điển không còn là cường quốc nữa, mất đất về tay Đế quốc NgaVương quốc Phổ. Tuy thế, chính phủ Thuỵ Điển vẫn mong muốn lập lại vai trò liệt cường của đất nước. Họ đẩy đất nước vào cuộc chiến tranh với quân Nga trong thập niên 1740, kết quả là quân Thuỵ Điển lại bại trận. Từ đó, Nga hoàng càng can thiệp vào nội bộ Thụy Điển[8] Trong cuộc Chiến tranh Bảy năm (1756 - 1763), Thuỵ Điển tham chiến trong liên quân Áo - Pháp - Nga, để đánh nước Phổ với mong muốn giành lại tỉnh Pomerania.[9] Nhưng một vị vua lớn trong lịch sử Phổ là Friedrich II Đại Đế đã đấu tranh anh dũng, sau cùng liên quân dần dần tan rã và quân Thuỵ Điển cũng phải rút lui.[10]

Vua Karl XIV Johan tranh vẽ của Fredric Westin

Trong cuộc cuộc chiến chống Nga (1788 - 1790) của vua Gustav III, Quân đội Thuỵ Điển gặt không ít rắc rối và cũng chẳng nhận được một vùng đất nào.[11]. Không những vậy, cuộc chiến tranh chống Napoléon của vua Gustav IV Adolf còn gây cho Thuỵ Điển nhiều thiệt hại hơn. Do Nga hoàng Aleksandr I lúc đó liên minh với "tên phản Chúa" Napoléon (1807), quân Nga đánh đuổi quân Thuỵ Điển ra khỏi xứ Phần Lan, và điều này khiến một nhóm quý tộc Thuỵ Điển nổi điên lật đổ vua Gustav IV Adolf vào năm 1809.[12] Vào năm 1813, Thụy Điển tham chiến trong liên quân chống Pháp - một liên minh có cả Nga và Phổ[13]; sau khi Hoàng đế Napoléon đại bại trong trận Leipzig, vua Karl XIV Johan còn lâm chiến với Đan Mạch.[14] Trong Hiệp ước Kiel năm 1814 Đan Mạch bắt buộc phải nhượng Na Uy để đổi lại phần đất Vorpommern của Thuỵ Điển. Khi Na Uy tuyên bố độc lập sau đó, trong một cuộc chiến ngắn ngủi và gần như không đổ máu vua Karl XIV Johan đã thành công trong việc ép buộc thành lập liên minh Thuỵ Điển – Na Uy mà trong đó Na Uy vẫn là một vương quốc riêng biệt. Sau cuộc chiến tranh cuối cùng này Karl XIV Johan đã áp dụng một chính sách hòa bình nhất quán, là cơ sở cho nền trung lập của Thuỵ Điển. Thời gian 200 năm hòa bình của Thuỵ Điển tính từ thời điểm này cho đến nay là độc nhất trên toàn thế giới ngày nay.

Dân số Thuỵ Điển tăng rõ rệt trong thế kỷ 19, từ năm 1750 đến 1850 dân số đã tăng gấp đôi. Nhiều người ở vùng nông thôn, là nơi cư ngụ của đa phần người dân, không có việc làm, đi đến nghèo nànnghiện rượu. Vì thế trong thời gian từ 1850 đến 1910 đã có một cuộc di dân lớn mà chủ yếu là đến Mỹ. Mặc dầu vậy khi cuộc Cách mạng công nghiệp bắt đẩu tiến triển tại Thuỵ Điển, người dân từng bước gia nhập vào thành phố và tổ chức các công đoàn xã hội chủ nghĩa. Một cuộc cách mạng của những người theo chủ nghĩa xã hội đang đe dọa xảy ra được tránh khỏi vào năm 1917, sau đó là việc tái thành lập chế độ nghị viện và quốc gia này trở thành dân chủ.

Trong thế kỷ 20, Thuỵ Điển trung lập trong Đệ nhất thế chiếnĐệ nhị thế chiến, mặc dầu là sự trung lập của quốc gia này trong Đệ nhị thế chiến vẫn còn bị tranh cãi. Thuỵ Điển tiếp tục trung lập trong cuộc Chiến tranh lạnh và cho đến ngày nay vẫn không là thành viên của một liên minh quân sự nào. Sau Đệ nhị thế chiến nhờ vào nguồn tài nguyên thiên nhiên và không bị tàn phá Thuỵ Điển đã có thể phát triển ngành công nghiệp cung cấp cho công cuộc tái xây dựng châu Âu và vì thế trở thành một trong những quốc gia giàu có nhất trên thế giới vào thập niên 1960. Khi các nền kinh tế khác bắt đầu vững mạnh Thuỵ Điển tuy đã bị vượt qua vào thập niên 1970 nhưng vẫn thuộc về các quốc gia đứng đầu về mặt hạnh phúc của người dân.

Ngày 19 tháng 12 năm 1946, Thuỵ Điển gia nhập Liên Hợp Quốc, tháng 11 năm 1959 gia nhập Hiệp hội mậu dịch tự do châu Âu (EFTA). Dưới triều vua Gustavus V (1907-1950), kinh tế phát triển thịnh vượng chưa từng có. Thuỵ Điển duy trì tính trung lập trong Chiến tranh thế giới thứ I. Một lần nữa, Thuỵ Điển vẫn giữ vai trò trung lập trong Chiến tranh thế giới thứ II. Đảng Dân chủ xã hội liên tục cầm quyền dưới thời Thủ tướng Per Albin Hasson (1932-1946), Thủ tướng Tage Erlander (1946- 1969). Kinh tế vẫn phát triển và mô hình Thuỵ Điển tiếp tục được củng cố. Tuy nhiên, dưới thời Thủ tướng Olof Palme (1969- 1979), Chính phủ phải đương đầu vớị cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội.[15]

Năm 1976, phe bảo thủ lên cầm quyền. Năm 1982, O. Palme trở lại giữ chức Thủ tướng. Palme bị Ám sát năm 1986, Ingvar Carlsson trở thành người kế nhiệm. Năm 1991, lãnh đạo phe bảo thủ, Carl Bildt, trở thành Thủ tướng. Năm 1994, Đảng Dân chủ Xã hội trở lại cầm quyền. Năm 1995, Thuỵ Điển gia nhập Liên hiệp châu Âu, nhưng từ chối thông qua việc sử dụng đồng euro năm 1999.[16]

Chính trị[sửa | sửa mã nguồn]

Quốc hội Thụy Điển
Tòa nhà Quốc hội Thụy Điển.
Lâu đài Stockholm Palace nơi ở của Vua Thụy Điển.

Thuỵ Điển là một nước có nền quân chủ lập hiến. Nguyên thủ quốc gia từ năm 1973 là vua Carl XVI Gustav. Quốc hội (Riksdag) chỉ có một viện bao gồm 349 nghị sĩ và được bầu 4 năm một lần. Hiện thời trong Quốc hội có 8 đảng được quyền tham gia quốc hội chia làm 2 liên minh chính trị:

Liên minh Đỏ Xanh(De rödgröna) gồm: Liên minh (Alliansen) gồm:

Đảng Dân chủ Thụy Điển (Sverigedemokraterna) (Sd) chiếm 20 ghế hoạt động độc lập. Đảng này có quan điểm chính trị chống lại người nhập cư và có liên quan đến tổ chức phân biệt chủng tộc (Bevara Sverige Svenskt) do đó 7 đảng ở trên không muốn liên minh cùng.[17]

Quốc hội bổ nhiệm Thủ tướng, người bổ nhiệm các bộ trưởng cho chính phủ của ông. Hiện nay chính phủ Thuỵ Điển là chính phủ thiểu số của Đảng Dân chủ Xã hội với sự ủng hộ của Đảng Xanh và Đảng Cánh tả.

Vương quốc này được chia thành 21 tỉnh (län). Các nhiệm vụ quản lý nhà nước ở cấp tỉnh được thống đốc (hoặc thủ hiến) (landshövding) và chính quyền cấp tỉnh (länsstyrelse) thi hành.

Việc tự quản lý ở cấp làng xã được phân chia thành 2 cấp: các nhiệm vụ của làng xã như hệ thống trường học, phục vụ xã hội, chăm sóc người già và trẻ em và hạ tầng cơ sở của làng xã thuộc về nhiệm vụ của 289 làng (kommun), các khu vực vượt quá khả năng của từng làng xã một như hệ thống y tế, giao thông trong vùng, kế hoạch hóa giao thông,... thuộc về quyền hạn của các hội đồng tỉnh (landsting). Làng xã và các hội đồng tỉnh dùng thuế thu nhập, các khoản thu khác và trợ cấp quốc gia để chi phí cho các hoạt động này.

Tại Thuỵ Điển có nguyên tắc công khai, tức là giới báo chí và tất cả các cá nhân đều có thể xem các văn kiện của công sở nhà nước, ngoại trừ một số ít trường hợp đặc biệt. Không một người nào phải nêu lý do tại sao muốn xem một văn kiện nhất định và cũng không phải trình chứng minh thư.

Một điều đặc biệt khác là hệ thống các thanh tra viên (ombudsman). Những người này bảo vệ quyền lợi của cá nhân trong khi họ tiếp xúc với chính quyền và theo dõi việc thi hành các luật lệ quan trọng. Người công dân khi cho rằng bị đối xử không công bằng có thể tìm đến thanh tra viên, những người sẽ điều tra trường hợp này và có thể mang vụ việc ra trước tòa án với tư cách là nguyên cáo đặc biệt. Đồng thời họ cũng có nhiệm vụ cộng tác với các cơ quan nhà nước để nắm bắt tình hình trong phạm vi của họ, thi hành các công tác giải thích và đưa ra những đề nghị thay đổi luật lệ. Bên cạnh những thanh tra viên về luật pháp còn có thanh tra viên của người tiêu dùng, thanh tra viên về trẻ em, thanh tra viên về quyền bình đẳng và các thanh tra viên về phân biệt đối xử chủng tộc và phân biệt đối xử vì các khuynh hướng tình dục.

Trong một thời gian dài Thụy Điển đã được xem như là một nước dân chủ xã hội điển hình và nhiều người theo cánh tảchâu Âu đã xem Thuỵ Điển như là một thí dụ điển hình cho một "con đường thứ ba" giữa chủ nghĩa xã hộikinh tế thị trường.

Vào ngày 14 tháng 9 năm 2003, việc đưa đồng euro vào sử dụng làm tiền tệ quốc gia được biểu quyết tại Thuỵ Điển. Những người hoài nghi euro đã thắng thế (tỷ lệ đi bầu: 81,2%, kết quả bầu cử: 56,1% chống, 41,8% thuận, 2,1% phiếu trắng và 0,1% phiếu không hợp lệ). Theo tuyên bố của chính phủ Thuỵ Điển sẽ không có trưng cầu dân ý nào khác trước năm 2013.

Thuỵ Điển lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam ngày 11 tháng 1 năm 1969.

Địa lý[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Địa lý Thụy Điển
Kebnekaise đỉnh núi cao nhất Thụy Điển

Thuỵ Điển có biên giới với biển Kattegatt, các quốc gia Na UyPhần LanBiển Đông (Thụy Điển). Hai đảo lớn của Biển Đông thuộc về Thuỵ Điển là Gotland (khoảng 3.000 km²) và Öland (khoảng 1.300 km²). Ngoài ra còn có khoảng 221.800 đảo. Chiều dài nhất từ Bắc đến Nam là 1.572 km, từ Đông sang Tây là 499 km.

Trong khi phần lớn đất nước là bằng phẳng hay có đồi thì dọc theo biên giới với Na Uy là dãy núi Bắc Âu (Skanden) cao đến trên 2.000 m với đỉnh cao nhất là Kebnekaise (2.111 m). Có rất nhiều vườn quốc gia rải rác trên toàn nước.

Phân chia hành chính[sửa | sửa mã nguồn]

Bản đồ hành chính Thụy Điển

Theo truyền thống Thuỵ Điển được chia ra thành ba vùng (landsdelar) là Götaland, SvealandNorrland. Vùng lịch sử thứ tư của Thụy Điển cho đến năm 1809Österland, nước Phần Lan ngày nay. Cho đến cuộc cải cách hành chính do Axel Oxenstierna tiến hành năm 1634 các vùng này được chia là 25 khu vực (landskap)

21 đơn vị hành chính chính thức (län) không hoàn toàn trùng hợp với các khu vực trên là:

Thành phố lớn nhất là thủ đô Stockholm. Các thành phố quan trọng khác là Göteborg, Malmö, Uppsala, Linköping, Västerås, ÖrebroNorrköping.

Nói chung Thuỵ Điển có thể được chia ra làm vùng phía Nam đông dân cư và phát triển nhiều hơn là vùng miền Bắc rất ít dân cư. Miền Bắc bắt đầu từ phía bắc của các thành phố Borlänge, FalunGävle, khoảng trên đường nối Söderhamn-Mora. Vào khoảng năm 1900 miền Bắc Thuỵ Điển bắt đầu được khai thác. Trong thời gian từ năm 1907 đến 1937 đường sắt Thụy Điển được xây dựng giữa KristinehamnGällivare nhằm để đẩy mạnh công cuộc khai thác này.

Địa hình[sửa | sửa mã nguồn]

Miền Nam và Trung Thuỵ Điển (GötalandSvealand), hai vùng mà chỉ bao gồm 2/5 Thuỵ Điển, được chia từ Nam đến Bắc ra thành 3 vùng đất lớn. Miền Bắc Thuỵ Điển, bao gồm 3/5 còn lại của Thuỵ Điển được chia từ Đông sang Tây ra thành 3 vùng có phong cảnh khác nhau.

Hồ Vänern

Phần cực Nam, tỉnh Skåne, là phần đất nối tiếp của vùng đồng bằng miền Bắc nước ĐứcĐan Mạch. Điểm thấp nhất của Thuỵ Điển với 2,4 m dưới mặt biển cũng ở Schonen. Trải dài từ phía bắc của vùng này là cao nguyên Nam Thuỵ Điển, miền đất nhiều đồi với rất nhiều hồ có hình dáng dài được hình thành qua xói mòn của thời kỳ băng hà. Vùng đất lớn thứ ba là vùng trũng Trung Thuỵ Điển, là một vùng bằng phẳng nhưng lại bị chia cắt nhiều với các đồng bằng lớn, đồi núi, vịnh hẹp và nhiều hồ (trong đó có 4 hồ lớn nhất Thuỵ Điển là Vänern, Vättern, MälarenHjälmaren).

Phía tây của Bắc Thuỵ Điển là dãy núi Bắc Âu, là biên giới với Na Uy, có chiều cao từ 1.000 m đến 2.000 m trên mực nước biển. Trên dãy núi Bắc Âu là ngọn núi cao nhất Thuỵ Điển, ngọn núi Kebnekaise (2.111 m). Nối liền về phía Đông là vùng đất lớn nhất của Thuỵ Điển. Dọc theo dãy núi là các vùng cao nguyên rộng lớn ở độ cao 600 m đến 700 m trên mực nước biển và chuyển tiếp sang thành một vùng đất có nhiều đồi với địa thế mấp mô thấp dần đi về phía Đông. Các mỏ lớn (sắt, đồng, kẽm, chì) của Thuỵ Điển cũng nằm trong vùng đất này. Các sông lớn của Thuỵ Điển đều bắt nguồn từ dãy núi Bắc Âu và chảy gần như song song với nhau qua các đồng bằng về hướng Biển Đông. Dọc theo bờ Biển Đông là vùng đất bằng phẳng bị chia cắt giữa HärnösandÖrnsköldsvik bởi một nhánh núi (Höga kusten). Các sông dài nhất của Thuỵ Điển là Klarälven, Torneälv, Dalälven, UmeälvÅngermanälven.

Khí hậu[sửa | sửa mã nguồn]

So với vị trí địa lý, khí hậu của Thuỵ Điển tương đối ôn hòa vì trước tiên là do gần Đại Tây Dương với dòng hải lưu Gơn strim ấm áp. Phần lớn nước Thuỵ Điển có khí hậu ẩm, mưa nhiều và nhiệt độ tương đối ít thay đổi giữa mùa đông và mùa hè. Tại miền nam Thuỵ Điển, được cái cây lá rộng chi phối, rừng lá kim phát triển ở phía bắc, với thông và vân sam thống trị cảnh quan. Vì Thụy Điển nằm giữa 55° vĩ độ và 69° vĩ độ và một phần ở trong vòng cực Bắc nên sự cách biệt giữa ánh sáng ban ngày dài trong mùa hè và ban đêm dài trong mùa đông rất lớn. Ở phần phía bắc, với sự xuất hiện của nhiều núi và biểu hiện của khí hậu cận cực, mùa đông lạnh hơn và tuyết rơi nhiều hơn so với miền nam. Vào một phần của mùa hè mặt trời sẽ xuất hiện tới nữa đêm hoặc không lặn và vào mùa đông, mặt trời chỉ xuất hiện trong vài giờ hoặc không xuất hiện. Lượng mưa trung bình hàng năm là khoảng 1.000 mm, với lượng mưa tương đối lớn ở phía tây cao nguyên Småland và bờ biển phía tây. Tháng giêng, nhiệt độ trung bình ban ngày vào khoảng 0 độ C ở phía nam, nhiệt độ âm ở miền trung và - 16 độ C ở phía bắc. Vào tháng bảy, nhiệt động trong bình vào khoảng 17 - 18 độ C ở Götaland och Svealand, và chỉ hơn 10 độ C ở phía cực bắc của Thuỵ Điển. Nhiệt độ thấp nhất được ghi nhận ở Thụy Điển là và ngày 2 tháng 2 năm 1966 ở Vuoggatjålme, Lappland với - 52,6 độ C. Nhiệt độ cao nhất được ghi nhận là 38 độ C ở Ultuna, Uppland (ngày 9 tháng 7 năm 1933) và Målilla, Småland (ngày 29 tháng 6 năm 1947).

Nhiệt độ trung bình cao và thấp ở các thành phố Thụy Điển (°C)[18]
City Jan Feb Mar Apr May Jun Jul Aug Sep Oct Nov Dec
Kiruna −10/−16 −8/−15 −4/−13 2/−7 8/0 14/6 17/8 14/6 9/2 1/−4 −5/−10 −8/−15
Östersund −5/−10 −3/−9 0/−6 5/−2 12/3 16/8 18/10 17/10 12/6 6/2 0/−3 −3/−8
Stockholm 1/−2 1/−3 4/−2 11/3 16/8 20/12 23/15 22/14 17/10 10/6 5/2 1/−1
Gothenburg (Göteborg) 2/−1 4/−1 6/0 11/3 16/8 19/12 22/14 22/14 18/10 12/6 7/3 3/−1
Visby 1/−2 1/−3 3/−2 9/1 14/6 18/10 21/13 20/13 16/9 10/6 5/2 2/0
Malmö 3/−1 3/−1 6/0 12/3 17/8 19/11 22/13 22/14 18/10 12/6 8/4 4/1

Hệ thực vật và động vật[sửa | sửa mã nguồn]

Khung cảnh ở Skåne miền nam Thụy Điển

Miền Bắc Thụy Điển có nhiều rừng cây lá kim rộng lớn, càng về phía Nam thì càng có nhiều rừng tạp. Tại miền Nam Thụy Điển các rừng cây lá rộng đã phải nhường chỗ cho canh nông hay được thay thế bằng cây lá kim vì chúng có độ tăng trưởng nhanh hơn. Hai đảo GotlandÖland có một hệ thực vật đa dạng gây nhiều ấn tượng, đặc biệt là có rất nhiều loài hoa lan.

Heo rừnghưu đỏ (Cervus elaphus) có nhiều. Heo rừng đã bị tiêu diệt trong tự nhiên vào cuối thế kỷ 19 nhưng sau khi thoát ra khỏi được các khu vực cấm săn bắn đã lại phát triển đến một dân số có thể tự sống được. Các dã thú như gấu, sóilinh miêu đã phát triển trở lại trong những năm gần đây nhờ vào các quy định bảo vệ môi trường nghiêm ngặt.

Năm 1910 Thụy Điển là quốc gia đầu tiên của châu Âu thành lập các vùng bảo vệ thiên nhiên và cho đến ngày hôm nay vẫn luôn luôn bảo vệ thiên nhiên của đất nước. Người Thụy Điển có ý thức bảo vệ môi trường rất cao.

Kinh tế[sửa | sửa mã nguồn]

Trụ sở tập đoàn Ericsson tại Stockholm
Bài chi tiết: Kinh tế Thụy Điển

Trong nửa sau của thế kỷ 19, mặc dầu đã có xây dựng đường sắt, Thụy Điển vẫn còn là một quốc gia nông nghiệp rõ rệt với 90% dân số sống nhờ vào nông nghiệp. Mãi cho đến thập niên cuối cùng của thế kỷ 19 mới có công nghiệp hóa rộng lớn, làm cơ sở cho một xã hội công nghiệp hiện đại cho đến cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 1929. Sau Đệ nhị thế chiến Thụy Điển trở thành một trong những quốc gia công nghiệp dẫn đầu của thế giới. Việc phát triển công nghiệp đạt đến đỉnh cao vào giữa thập niên 1960, từ thập niên 1970 số người lao động trong công nghiệp giảm xuống trong khi khu vực dịch vụ tăng trưởng thêm. Trong năm 2002 nông nghiệp chỉ chiếm hơn 2% của tổng sản phẩm quốc nội, tỷ lệ của khu vực công nghiệp là 28% trong khi 70% của tổng sản phẩm quốc nội là do khu vực dịch vụ tạo nên.

Nông nghiệp và lâm nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Nền nông nghiệp Thụy Điển mang dấu ấn của những điều kiện về địa chất và của khí hậu. Khoảng 10% diện tích quốc gia được sử dụng trong nông nghiệp. 90% diện tích trồng trọt là ở miền Nam và miền Trung của Thụy Điển. Một phần lớn các công ty trong nông nghiệp là sở hữu gia đình. Được trồng nhiều nhất là ngũ cốc, khoai tây và các loại cây cho dầu. Thế nhưng hơn phân nửa thu nhập trong nông nghiệp (58%) là từ chăn nuôi mà nhiều nhất là sản xuất sữa. Trợ giá nông nghiệp của Liên minh châu Âu chiếm 24% thu nhập. 3/4 các công ty nông nghiệp đều có rừng và kết hợp nông nghiệp với lâm nghiệp. Do Thụy Điển là một trong những nước giàu rừng nhất thế giới (25% diện tích quốc gia là rừng) nên lâm nghiệp cũng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế.

Khai thác mỏ và công nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Khai thác quặng sắt tại Kiruna

Thụy Điển giàu về khoáng sản và đã bắt đầu khai thác từ thời kỳ Trung Cổ. Sau cuộc khủng hoảng sắt và thép của thập niên 1970, quặng sắt chỉ còn được khai thác ở Norrland (thành phố Kiruna) và được xuất khẩu. Đồng, chìkẽm đều vượt quá nhu cầu trong nước gấp nhiều lần và cũng được xuất khẩu trong khi bạc chỉ đáp ứng được 60% và vàng 80% nhu cầu trong nước. Cũng còn có nhiều dự trữ quặng nhưng việc khai thác trong thời gian này không có hiệu quả kinh tế.

Điểm đặc biệt của nền công nghiệp Thụy Điển là thành phần của các công ty lớn tương đối cao. Sau một cuộc khủng hoảng vào đầu những năm 1990 (sản xuất giảm 10% trong vòng 2 năm) công nghiệp bắt đầu phục hồi. Các ngành công nghiệp lớn nhất là chế tạo xe cơ giới (chiếm 13% giá trị sản xuất năm 1996) với các công ty như Volvo, Scania, Saab và Saab AB (máy bay và kỹ thuật du hành vũ trụ), công nghiệp gỗ và giấy (cũng chiếm 13% giá trị sản xuất) với 4 công ty lớn, chế tạo máy (12%) với các công ty như Electrolux, SKF, Tetra-Pak, Alfa-Laval và công nghiệp điện-điện tử (19%) với các công ty chiếm ưu thế là EricssonABB.

Trung tâm mua sắm Nordstan ở Gothenburg, trung tâm mua sắm lớn nhất ở Bắc Âu.

Dịch vụ[sửa | sửa mã nguồn]

Khu vực dịch vụ đóng góp 70% của tổng sản phẩm quốc nội mà trước tiên là do khu vực nhà nước đã tăng trưởng rất mạnh trong các thập niên gần đây. Mặc dù vậy khu vực dịch vụ tư nhân vẫn chiếm hơn 2/3 sản lượng.

Ngoại thương[sửa | sửa mã nguồn]

Kinh tế Thụy Điển phụ thuộc mạnh vào ngoại thương. Các nước xuất khẩu chính là USA (11,9% xuất khẩu trong quý đầu của năm 2004), Đức (10,2%), Na Uy (8,3%) và Anh (7,8%). Các sản phẩm nhập khẩu quan trọng nhất là các sản phẩm điện và điện tử (16,8% của nhập khẩu trong quý đầu của năm 2004), máy móc (11,4%) xe cơ giới và thành phần của xe cơ giới (11,3%).

Tỷ lệ đầu tư trực tiếp của nước ngoài tại Thụy Điển tương đối cao. Nguyên nhân là do một số ít tập đoàn kinh doanh quốc tế chiếm thế áp đảo trong nền kinh tế của Thụy Điển. Vào khoảng 50 tập đoàn chiếm 2/3 xuất khẩu của Thụy Điển.

Du lịch[sửa | sửa mã nguồn]

Du lịch tham gia đóng góp vào khoảng 3% (4 tỉ USD năm 2000) trong tổng sản phẩm quốc nội. 4/5 khách du lịch là người trong nước và chỉ có 1/5 là đến từ nước ngoài. Trong số khách du lịch từ nước ngoài năm 1998, 23% đến từ Đức, 19% từ Đan Mạch, 10% từ Na Uy, 9% từ Anh và 9% từ Hà Lan.

Dân cư[sửa | sửa mã nguồn]

Thụy Điển có vào khoảng 9 triệu dân. Tỷ lệ sinh 1,7 con cho một người phụ nữ (2002) là một trong những tỷ lệ thấp nhất trong lịch sử của Thụy Điển mặc dầu là vẫn còn trên mức trung bình của châu Âu.

12% dân cư là người di dân, trong đó người Phần Lan là nhóm đông nhất với 100.000 người. Vì cuộc khủng hoảng đang xảy ra ở Iraq nên cũng có rất nhiều người Iraq đến Thụy Điển. Ngoài ra còn có người Na Uy, Đan Mạch, Croatia, Serbia, Bosna, ĐứcBa Lan. Người Ba Lan làm việc với tư cách là khách lao động có rất nhiều trong khu vực y tế.

Ngôn ngữ[sửa | sửa mã nguồn]

Ngôn ngữ phổ thông gần khắp mọi nơi là tiếng Thụy Điển. Tiếng Na Uy cũng được hiểu gần như khắp mọi nơi vì rất tương tự như tiếng Thụy Điển. Một số vùng nói tiếng Phần Lantiếng Sami.

Tại Thụy Điển, tiếng Phần Lan, tiếng Meänkieli, tiếng Jiddisch, tiếng Romani và tiếng Sami có địa vị là các ngôn ngữ thiểu số được công nhận. Gần 80% người Thụy Điển nói tiếng Anh như là ngoại ngữ vì một phần tiếng Anh là ngoại ngữ đầu tiên trong trường học và phần khác là vì tiếng Anh có rất nhiều trong chương trình truyền hình. Đa số học sinh chọn tiếng Đức là ngoại ngữ thứ nhì, nhưng gần đây tiếng Tây Ban Nha đang được ưa chuộng và đã vượt qua tiếng Đức tại một số trường. Thật ra tiếng Đức là ngoại ngữ đầu tiên tại Thụy Điển cho đến năm 1950 cũng như trong phần còn lại của Bắc Âu.

Tôn giáo[sửa | sửa mã nguồn]

Nhà thờ Uppsalas.

Có 75% người dân Thụy Điển thuộc về Giáo hội Luther, từ 1527 cho đến 1999 đã là tôn giáo quốc gia. Số người của nhóm lớn thứ nhì, những người theo Hồi giáo, rất khó được đoán chính xác. Tổng số những thành viên là vào khoảng 250.000 người. Công giáo La Mã có vào khoảng 150.000 người và Chính Thống giáo Đông phương 100.000 người. Bên cạnh đó tại Thụy Điển có khoảng 23.000 người của Nhân chứng Jehova, 20.000 người là tín đồ Phật giáo và vào khoảng 10.000 người theo đạo Do Thái. Tuy nhiên thep thống kê cho thấy Thụy Điển là một trong những nước vô thần nhất thế giới vì 85 phần trăm người dân không tin vào tôn giáo, vì có một số lượng thành viên rất đông trong giáo hội Luther.

Cuộc sống xã hội[sửa | sửa mã nguồn]

Khu phố cổ của Stockholm

"Mô hình Thụy Điển", một khái niệm của thập niên 1970, ám chỉ hệ thống phúc lợi xã hội, một hệ thống phúc lợi và chăm lo xã hội rộng khắp, là kết quả của sự phát triển hằng trăm năm. Trong thời gian từ năm 1890 đến 1930 một phần cơ sở cho một hệ thống phúc lợi xã hội đã thành hình, nhưng mãi đến những năm của thập niên 1930, đặc biệt là từ khi Đảng Công nhân Dân chủ Xã hội Thụy Điển thành lập chính phủ năm 1932, việc xây dựng một quốc gia phúc lợi xã hội mới trở thành một dự án chính trị và được đẩy mạnh. Hệ thống phúc lợi xã hội Thụy Điển cuối cùng đã bao gồm tất cả mọi người từ trẻ em (thông qua hệ thống chăm sóc trẻ em của làng xã) cho đến những người về hưu (thông qua hệ thống chăm sóc người già của làng xã).

Mãi đến thập niên vừa qua mới có những thay đổi lớn. Một cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng đầu thập niên 1990 đã dẫn đến việc cắt giảm các phúc lợi xã hội và sự phát triển nhân khẩu như đã dự đoán đã buộc phải xây dựng lại toàn bộ hệ thống hưu trí, hệ thống mà từ nay được gắn liền vào phát triển kinh tế. Thế nhưng các cuộc bầu cử vừa qua đã cho thấy là chính những phần cốt lõi của hệ thống phúc lợi xã hội rất được người công dân yêu mến.

Văn hoá[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Văn hoá Thụy Điển

Văn học[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Văn học Thụy Điển

Vào đầu Phong trào Cải cách nền tảng cho một tiếng Thụy Điển thống nhất bắt đầu hình thành. Văn học mang tính chất tôn giáo chiếm lĩnh ưu thế trong suốt thời kỳ này.

Vào năm 1732 số đầu tiên của tờ tuần báo đầu tiên, Then swänska Argus, được phát hành. Olof Dalin, người phát hành tờ tuần báo này, chủ yếu hướng về giới bạn đọc là người thường dân. Trong những người cùng thời với Dalin nổi bật nhất là bà Hedvig Charlotta Nordenflycht. Thơ của bà một phần mang tính chất cá nhân và trữ tình, một phần khác mang dấu ấn của cuộc đấu tranh vì các quyền trí thức của phụ nữ.

Erik Gustaf Geijer cũng như người sau ông là Esaias Tegnér là những người đại diện cho trường phái lãng mạn quốc gia trong Thời kỳ Lãng mạn. Với bài thơ Vikingen Geijer đã đưa hình tượng của người Viking đi vào văn học. Cũng trong thời kỳ này các tiểu thuyết đầu tiên bắt đầu được phát hành, đáng kể nhất là Carl Jonas Love Almqvist với quyển tiểu thuyết Drottningens juvelsmycke (Châu báu của hoàng hậu).

Selma Lagerlöf, tranh vẽ của Carl Larsson (1909)

August StrindbergSelma Lagerlöf là hai nhà văn nổi bật nhất trong thời gian từ cuối thế kỷ 19 cho đến Đệ nhất thế chiến. Với hai tác phẩm Fadren (Cha) năm 1887Fröken Julie (Người con gái tên Julie) Strindberg đã đạt đến giới bạn đọc quốc tế. Người đoạt giải Nobel Selma Lagerhöf bắt đầu được giới công khai biết đến qua quyển tiểu thuyết Gösta Berlings saga.

Nền văn học sau năm 1914 hướng về các đề tài xã hội nhiều hơn thời gian trước đó. Sigfrid Siwertz, Elin WägnerHjalmar Bergman miêu tả đất nước Thụy Điển đương thời trong thời gian chuyển đổi từ xã hội nông nghiệp sang xã hội công nghiệp.

Thời kỳ Hiện đại trong văn học Thụy Điển bắt đầu trong những thập niên sau Đệ nhị thế chiến. Giữa những năm 1960 bắt đầu có một cuộc đổi hướng trong văn học Thụy Điển. Nhận thức mới về chính trị thế giới đòi hỏi một nền văn học phê bình xã hội. Per Olov Enquist viết quyển tiểu thuyết mang tính chất tài liệu về việc trục xuất những người Balt từ Thụy Điển về Liên bang Xô viết. Các nhà văn khác như Pär WestbergSara Lidman viết về tình trạng của thế giới bên ngoài. Trong những năm của thập kỷ 1970 văn học Thụy Điển trở về đề tài sử thi. Trong nhiều tác phẩm cùng chủ đề, từng vùng đất của Thụy Điển đã được miêu tả lại trong lúc chuyển đổi giữa cũ và mới. Lars Norén với bi kịch gia đình Modet att döda (Can đảm để giết người) năm 1980 đã trở thành nhà viết bi kịch nổi tiếng nhất của những thập niên kế tiếp.

Phim[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Phim Thụy Điển

Vào khoảng năm 1910 Thụy Điển bắt đầu sản xuất phim thường xuyên. Chẳng bao lâu phim Thụy Điển đạt chất lượng đến một mức độ làm cho cả thế giới biết đến. Thế nhưng khi phim có âm thanh ra đời và kèm theo đó là việc tự giới hạn trong thị trường nhỏ nói tiếng Thụy Điển, phim Thụy Điển giảm sút xuống mức độ thấp về nghệ thuật. Mãi đến sau Đệ nhị thế chiến phim Thụy Điển mới trải qua một cuộc đổi mới về chất lượng nghệ thuật. Trước tiên là trong thể loại phim tài liệu, thí dụ như phim Con người trong thành phố của Arne Sucksdorf đã đoạt được giải thưởng Oscar. Thể loại phim thiếu niên và nhi đồng cũng đạt được sự quan tâm của thế giới.

Âm nhạc[sửa | sửa mã nguồn]

Thụy Điển nổi tiếng về thể loại nhạc Pop với các ban nhạc được cả thế giới biết đến như ABBA, Roxette, Ace of BaseArmy of Lovers. Thuộc về các ban nhạc nổi tiếng hiện nay là LooptroopThe Hives. Bên cạnh đó, Thụy Điển cũng là một đất nước có nền nhạc Metal phát triển cực kì mạnh mẽ với những cái tên đã quá quen thuộc với các rockfan trên toàn thế giới như Arch Enemy, In Flames,Dark Funeral, Dark Tranquillity hay Pain Of Salvation.

Kiến trúc[sửa | sửa mã nguồn]

Các lễ hội và phong tục tập quán đặc trưng[sửa | sửa mã nguồn]

Lễ hội giữa hè (tranh vẽ của Anders Zorn 1897)
Cây nêu của lễ hội giữa hè

Ngày 6 tháng 1 là ngày lễ Trettondedag jul (lễ Ba Vua còn gọi là lễ Hiển Linh), đây là ngày lễ quốc gia tại Thụy Điển chủ yếu theo đạo Tin Lành.

Vào ngày 13 tháng 1, Tjugondedag jul (còn gọi là Tjugondag jul hay Knut), mùa Giáng Sinh chấm dứt. Thỉnh thoảng có lễ hội cuối cùng, nến và các vật trang hoàng được tháo gỡ xuống và cây Nô en được mang ra ngoài.

Valborgsmässoafton được chào mừng vào ngày 30 tháng 4. Người dân quay quanh các lửa trại lớn, có phát biểu chào mừng mùa Xuân và hát các bài ca về mùa Xuân. Đặc biệt ở tại LundUppsala thì Valborg vào đêm trước ngày 1 tháng 5 là một lễ hội sinh viên quan trọng. Đúng 15 giờ tất cả mọi người đều đội mũ sinh viên lên là hát những bài ca sinh viên. Vào đêm đó thường người ta uống nhiều rượu.

Ngày 6 tháng 6, Svenska flaggans dag, là ngày lễ quốc khánh của Thụy Điển. Đầu tiên là "Flaggentag" (Ngày Quốc kỳ), ra đời vào năm 1916, ngày 6 tháng 6 là lễ quốc khánh từ năm 1983 và từ năm 2005 cũng là ngày lễ chính thức.

Lễ hội giữa hè (Midsommarfest) được mừng vào đêm rạng sáng ngày thứ Bảy đầu tiên sau ngày 21 tháng 6. Lễ hội này được ăn mừng lớn chỉ có thể so sánh được với lễ Giáng Sinh. Thụy Điển đẹp nhất vào đêm "midsommarafton" cuối tháng 6, khi ánh sáng mặt trời có thể nhìn thấy 24 tiếng liên tục ở miền Bắc và ở miền Nam chỉ có vài tiếng là hoàng hôn và rạng sáng. Ngày lễ này có truyền thống rất lâu đời và có nguồn gốc từ các lễ hội chào mừng mùa Hè từ thời kỳ Tiền Lịch sử. Trên khắp mọi nơi ở Thụy Điển người dân ca hát và nhảy múa chung quanh cây nêu tháng 5 được trang hoàng bằng cành cây và bông hoa, có lẽ là biểu tượng quốc gia Thụy Điển nổi tiếng nhất.

Vào tháng 8 bắt đầu có tôm cua tươi đầu mùa ở chợ. Lễ hội chào mừng được gọi là Kräftskiva và được tổ chức không có thời điểm nhất định. Người dân ăn tôm cua luộc cho đến khi no và uống kèm theo đó là rượu mạnh.

Tại miền Bắc Thụy Điển còn có Surströmmingsfest vào cuối mùa Hè. Việc ăn cá trích được ủ trước cùng với khoai tây hay với tunnbröd (một loại bánh mì khô) trong dịp lễ này đòi hỏi phải có khẩu vị "cứng cáp".

Lễ Lucia (Luciafest) bắt đầu vào sáng ngày 13 tháng 12 và tại Thụy Điển là ngày của Nữ hoàng ánh sáng. Người con gái đầu trong gia đình xuất hiện với một váy trắng và mang trên đầu một vòng hoa được làm từ cành cây của một loài cây việt quất (Vaccinium vitis-idaea) và nến, đánh thức gia đình và mang thức ăn sáng đến tận giường. Trường học và nơi làm việc trên toàn nước được các đoàn diễu hành đến thăm viếng vào sáng sớm. Các cô gái trẻ mang váy trắng dài đến gót chân cùng với nến trên đầu và tay, đi cùng là các nam thiếu niên mang quần áo trắng và đội nón chóp dài được trang điểm bằng nhiều ngôi sao.

Thể thao[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Thể thao Thụy Điển

Thể thao là một phong trào quần chúng tại Thụy Điển với khoảng độ một nửa dân số tham gia tích cực. Hai môn thể thao chính là bóng đákhúc côn cầu trên băng. Zlatan Ibrahimovic, Henrik LarssonFredrik Ljungberg thuộc về những ngôi sao bóng đá của Thụy Điển và trong số những người nổi tiếng trong bộ môn khúc côn cầu trên băng phải kể đến Markus Näslund, Peter Forsberg, Mats Sundin, Daniel Alfredsson, Niklas Lidström, Börje SalmingPelle Lindbergh.

Số người chơi các môn thể thao cưỡi ngựa nhiều chỉ sau bóng đá, phần lớn là phụ nữ. Tiếp theo sau đó là golf, điền kinh và các môn thể thao đồng đội như bóng ném, khúc côn cầu trong nhà (tiếng Anh: Floorball), bóng rổ và ngoài ra là bandy tại các vùng phía Bắc.

Các vận động viên quần vợt thành công bao gồm Björn Borg, Mats Wilander,Stefan EdbergRobin Soderling.

Rất nhiều người Thụy Điển đã lập thành tích quốc tế trong điền kinh, thí dụ như Patrik Sjöberg - kỷ lục nhảy cao nam châu Âu, hay Kajsa Bergqvist - kỷ lục nhảy cao nữ, và người đoạt huy chương vàng Thế vận hội Stefan Holm. Hai vận động viên Thụy Điển khác đoạt huy chương vàng tại Thế vận hội mùa Hè 2004Carolina Klüft trong bộ môn điền kinh nữ bảy mônChristian Olsson trong bộ môn nhảy ba bước.

Các vận động viên nổi tiếng khác của Thụy Điển bao gồm Ingemar Johansson (đấm bốc hạng nặng), Annika Sörenstam (đánh golf), Jan-Ove Waldner (nguyên vô địch bóng bàn 5 lần) và Tony Rickardsson (đua mô tô).

Trong trường học, trên bãi cỏ hay trong công viên brännboll, một bộ môn thể thao tương tự như bóng chày, thường hay được chơi để giải trí. Trong các thế hệ lớn tuổi các bộ môn thể thao giải trí khác là kubbboules.

Những ngày lễ[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày Tên Tên bằng tiếng Thụy Điển Ghi chú
1 tháng 1 Tết Dương Lịch Nyårsdagen
6 tháng 1 Lễ Ba Vua Trettondagen
Thứ sáu (không nhất định) Thứ sáu Tuần Thánh Långfredag Vào thứ sáu trước Phục Sinh
Chủ nhật (không nhất định) Lễ Phục Sinh Påskdagen
Thứ hai (không nhất định) Hậu Phục Sinh Annandag påsk Vào thứ hai sau Phục Sinh
1 tháng 5 Ngày Lao động Första maj Xem phần nói về lễ hội tại Thụy Điển
Thứ năm (không nhất định) Lễ Thăng Thiên Kristi himmelsfärdsdag 40 ngày sau Phục Sinh
Chủ nhật (không nhất định) Lễ Hiện Xuống Pingstdagen 50 ngày sau Phục Sinh
Thứ hai (không nhất định) Whitmonday Annandag Pingst 51 ngày sau Phục Sinh
Thứ sáu thứ ba của tháng sáu Giao thừa Hạ chí Midsommarafton Bán chính thức
Thứ bảy thứ ba của tháng sáu Hạ chí Midsommardagen
Thứ bảy đầu tiên của tháng mười một Lễ Toàn Thiện Alla helgons dag
24 tháng 12 Giao thừa Giáng Sinh Julafton Bán chính thức
25 tháng 12 Giáng Sinh Juldagen
26 tháng 12 Ngày tặng quà (Boxing Day) Annandag jul
31 tháng 12 Giao thừa dương lịch Nyårsafton Bán chính thức
Tất cả chủ nhật Ngày nghỉ chính thức

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a ă HDI of Sweden. The United Nations. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2009.
  2. ^ “Befolkningsstatistik”. Statistiska centralbyrån. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2009. 
  3. ^ Statistics Sweden. Yearbook of Housing and Building Statistics 2007. Statistics Sweden, Energy, Rents and Real Estate Statistics Unit, 2007. ISBN 978-91-618-1361-2. Available online in PDF format
  4. ^ U.S. State Department Background Notes: Sweden
  5. ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, trang 23
  6. ^ Byron J. Nordstrom, The history of Sweden, trang 48
  7. ^ Gregory L. Freeze, Russia: a history, Oxford University Press, 2002, trang 102. ISBN 0-19-860511-0.
  8. ^ Byron J. Nordstrom, The history of Sweden, Greenwood Publishing Group, 2002, trang 49. ISBN 0-313-31258-3.
  9. ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, trang 200
  10. ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, Harvard University Press, 2006, trang 205. ISBN 0-674-02385-4.
  11. ^ Byron J. Nordstrom, The history of Sweden, trang 49
  12. ^ Byron J. Nordstrom, The history of Sweden, trang 64
  13. ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, trang 365
  14. ^ Byron J. Nordstrom, The history of Sweden, trang 90
  15. ^ “Thế giới”. Truy cập 17 tháng 2 năm 2015. 
  16. ^ http://www.mofa.gov.vn/vi/cn_vakv/euro/nr040819111931/ns110707102124#qnyXXfRQfLOV. Truy cập 17 tháng 2 năm 2015.  |tựa đề= trống hay bị thiếu (trợ giúp)
  17. ^ http://www.riksdagen.se/sv/ledamoter-partier/
  18. ^ weather. “Local, National, and International Weather – Forecasts, Radar Maps, Video, and News”. Msn.com. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2009. 

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]