CAO ÐÀI TỪ ÐIỂN

/ A / B / C / D / Ð / G / H / K / L / M / N / O / P / Q / R / S / T / U / V / X / Y /

 
MỤC LỤC
 

PHÁP
PHÁT

| PHÁ | PHÁC | PHÁCH | PHÁI | PHÀM | PHẠM | PHAN | PHÁN | PHẢN | PHẠN | PHÁP | PHÁT | PHĂN | PHẨM | PHÂN | PHẦN | PHẤN | PHẬN | PHẤT | PHẬT |

Pháp nhân:

 


Phần thứ nhứt: PHÁP NHÂN theo Sắc Luật số 003/65 ngày 12-7-1965.

 

Bài dạy Hạnh Đường khóa Lễ Sanh 1973:

"Kể từ Sắc Luật 003/65 ngày 12-7-1965 của chánh phủ được ban hành thì ĐĐTKPĐ tức là Đạo Cao Đài được công nhận có tư cách pháp nhân.

Nhưng phần lớn trong bổn đạo chưa nhận thức rõ Pháp nhân là thế nào và quyền hạn tư cách ấy đến mực nào?

Đa số vẫn lầm tưởng rằng, một khi Đạo có tư cách pháp nhân thì quyền hạn rộng lớn lắm, muốn gì đặng nấy và không ai làm gì đặng mình, rồi sanh ra tự cao tự đại.

Nhưng sự thật lại là một lẽ khác.

Theo Công Pháp Quốc Tế thì mỗi công dân của một nước Tự do Dân chủ, tức là mỗi cá nhân,hay nói cách khác, mỗi thể nhân đều được hưởng các quyền Tự do Dân chủ căn bản như: Quyền tự do hội họp, tự do đi lại, tự do ngôn luận, tự do sanh hoạt về kinh tế, thương mại và các quyền phụ thuộc như: quyền mua bán, ký kết, lập hoặc hủy bỏ các khế ước, làm chủ, nhận hoặc cho các tài vật về động sản, cũng như bất động sản, v.v...

Đó là nói về mỗi cá nhân hay là mỗi thể nhân; còn các đoàn thể hoặc hiệp hội do đông người hiệp ý với nhau làm một việc gì, như các tôn giáo, các đoàn thể đảng phái, các công ty, hoặc những hiệp hội nhỏ hơn như các hội thể thao, hội tương tế, v.v... thì sao?

Các tổ chức ấy, muốn hưởng các quyền hạn như một cá nhân hay thể nhân thì phải lập một bản Điều lệ hoặc Nội qui dâng lên cho chánh quyền xin được công nhận là một pháp nhân, tức là một người về mặt pháp lý và hưởng các quyền tự do dân chủ y như một thể nhân.

Pháp nhân ấy, chánh quyền ban ra thì lẽ dĩ nhiên có quyền thâu lại khi nhận thấy đủ bằng cớ rằng đoàn thể ấy có những hoạt động phi pháp, phạm pháp hay là có phương hại cho nền an ninh quốc gia.

Các thể nhân cũng như các pháp nhân, mặc dù được hưởng các quyền tự do dân chủ căn bản, nhưng lúc nào cũng phải ở trong vòng khuôn viên luật pháp hiện hành của quốc gia mình đang sống.

Pháp nhân, tóm tắt có ý nghĩa là một NHÂN (một người) về mặt pháp lý chớ chẳng phải được pháp nhân là một quyền gì to lớn bất khả xâm phạm rồi sanh ra tự cao có thể di hại cho tôn giáo hoặc đoàn thể đó vậy."

* Ngày 21-1-1965 (âl 19-12-Giáp Thìn), Hội Thánh ĐĐTKPĐ Tòa Thánh Tây Ninh gởi đơn lên chánh phủ đương thời thỉnh cầu chánh phủ công nhận Đạo Cao Đài có tư cách pháp nhân, kèm theo đơn là bản Hiến Chương ĐĐTKPĐ.

* Ngày 8-6-1965, Giáo sư Nguyễn Lương Hưng, Hội viên Hội Đồng Quốc gia Lập pháp được chỉ định đọc một bài thuyết trình về Đạo Cao Đài để Hội Đồng Quốc gia Lập pháp tường lãm và quyết nghị về pháp nhân của Đạo Cao Đài.

Sau đây chúng tôi xin chép lại nguyên văn 2 phần trên:

 

Bài Thuyết trình của Giáo Sư Nguyễn Lương Hưng


Bài Thuyết trình của Giáo Sư Nguyễn Lương Hưng,
Hội viên Hội Đồng Quốc gia Lập pháp, thuyết trình trước Đại Hội Hội Đồng Quốc gia Lập pháp ngày 8-6-1965:

Do đơn ngày 21-1-1965 gởi cho Thủ Tướng Chánh phủ có đính kèm một bản Hiến Chương ĐĐTKPĐ (Cao Đài giáo), Hội Thánh ĐĐTKPĐ thỉnh cầu Thủ Tướng Chánh phủ ban bố một Đạo Luật công nhận Hội Thánh ĐĐTKPĐ có đủ tư cách pháp nhân.

Nay đơn và hồ sơ đề ngày 21-1-1965 trên đây đã được Thủ Tướng Chánh phủ gởi cho ông Chủ Tịch Hội Đồng Quốc gia Lập pháp ngày 2-6-1965 và ông Chủ Tịch Ủy Ban Chánh Trị đề cử chúng tôi làm thuyết trình viên ngày 4-6-1965.

Sau đây là những yếu điểm về Cao Đài giáo mà chúng tôi xin trình bày để Hội Đồng tường lãm và thảo quyết.

Trước hết, chúng tôi xin trình bày sơ lược lịch sử của tôn giáo nầy.

I. LƯỢC SỬ CAO ĐÀI GIÁO:

ĐĐTKPĐ hay gọi tắt là Cao Đài giáo là một tôn giáo xuất hiện tại Miền Nam Việt Nam, được thành lập chánh thức từ năm 1926.

Cao Đài giáo phát xuất từ hiện tượng Thông linh (Spiritisme) tức là một lối giáng cơ đề bút rất thông dụng ở VN. Ban đầu hiện tượng giáng cơ nầy xảy ra lẻ tẻ tại nhiều nơi trong các vùng Sài Gòn, Chợ Lớn và Lục tỉnh, và sở dĩ hiện tượng nầy đã hấp dẫn mạnh mẽ nhiều tín đồ, ấy là vì nội dung kỳ diệu trong những ngôn từ mà đàn cơ phổ hiện ra. Đó là cái mà về sau, người ta gọi là Thánh giáo hay Thánh huấn (Messages Spirites). Bởi vậy, trong thời kỳ đó, người ta thấy xuất hiện nhiều chi phái (Sectes) rải rác khắp cả Miền Nam. Sau đó, theo những lời mật truyền trong một số Thánh giáo mà các chi phái kể trên lần lượt qui tụ lại để rồi tạo dựng một nền tôn giáo duy nhứt mang tên là ĐĐTKPĐ (Cao Đài giáo), sau khi đã chánh thức thành lập TòaThánh tại Thánh địa TâyNinh.

Kể từ đó, Cao Đài giáo đã thu hút rất nhiều tín đồ, trong đó, đa số là những vị quan chức thời Pháp thuộc và nhiều nhà trí thức lỗi lạc danh tiếng. Xét như vậy, Cao Đài giáo là một tôn giáo hoàn toàn đặt trên nền tảng của Thông Linh học. Do đó, Thông Linh học đóng góp một vai trò rất quan trọng trong vấn đề phát triển cơ cấu của Đại Đạo.

II. Ý NGHĨA VÀ ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẠI ĐẠO:

Sự xuất hiện của Cao Đài giáo là nhằm mục đích phục hồi những giá trị đạo lý cổ xưa đã được phổ truyền do các Đấng Giáo chủ chính yếu như: Thích Ca, Khổng Tử, Lão Tử, Jésus Christ, và phối hợp tất cả giáo lý giáo nghĩa của các tôn giáo cựu truyền đó, để đúc kết thành một hệ thống giáo lý tổng hợp duy nhứt theo như tôn chỉ mà một Thánh giáo đã vạch ra là: Qui nguyên Tam giáo (Nho, Thích, Đạo) và Phục nhứt Ngũ chi (Nhân đạo, Thần đạo, Thánh đạo, Tiên đạo, Phật đạo).

Cũng theo Thánh giáo, Đấng Thượng Đế phán truyền rằng: "Các tôn giáo kể trên, trải qua những biến chuyển thăng trầm của lịch sử, đã càng ngày bị biến đổi, sai lệch đối với các giáo lý nguyên sơ."

Thế nên sứ mệnh của Cao Đài giáo chính là tìm cách tu sửa các giáo nghĩa, sắp xếp lại thành một hệ thống thích nghi với trình độ tiến hóa của nhơn loại ngày nay. Mặt khác, sự tu sửa đó cũng là nói lên sự cần thiết của một nền văn hóa tổng hợp, xét như một điều kiện cần thiết cho công cuộc tựu tập nhơn loại thành một khối duy nhứt, hầu xây dựng một cộng đồng chung thanh bình an lạc.

Với mục phiêu lý tưởng đó, Cao Đài giáo chủ trương một đường lối hòa đồng rộng lớn trong mọi phương diện hoạt động của xã hội loài người, đặt trên nền tảng của tình huynh đệ bình đẳng và nâng cao phát triển tinh thần đạo lý, mở rộng ý thức về tôn giáo, xóa bỏ những dị kiến chấp nê sai lầm giữa các tín đồ thuộc các tôn giáo khác nhau.

Trong viễn tượng đó, Cao Đài giáo chỉ thờ một hình ảnh duy nhứt là ThiênNhãn (Oeil de Dieu) biểu trưng Đấng Thượng Đế tối cao, nguồn cứu rỗi vô biên đã gián tiếp hiện thân qua các phàm thể: Thích Ca, Jésus Christ, Khổng Tử, Lão Tử, v.v...

Sự hình thành của Cao Đài giáo qua hiện tượng Thông linh, chứng tỏ Đấng Thượng Đế không muốn giáng thế bằng cách nhập vào một phàm thể như đã được thể hiện trong các tôn giáo khác. Điều đó, có lẽ là Đấng Thượng Đế muốn loài người ý thức đúng đắn hơn cái mà người ta gọi là Thượng Đế. Nói rõ ra, tôn giáo Cao Đài chính là cái linh hồn bất biến của tôn giáo. Do đó nên có thể nói, ít ra là trên bình diện lý thuyết, Cao Đài giáo chính là một tôn giáo của tất cả tôn giáo. Và cũng bởi lẽ đó mà Cao Đài giáo chỉ là một tên gọi tắt thông thường, trong khi đó, Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ mới chính là tên gọi đích thực và đúng nghĩa của cái mà người ta gọi là Cao Đài giáo vậy.

Một điều quan trọng là khi nói đến tôn giáo, người ta thường quan niệm rằng phải có một Đấng Giáo chủ, điều kiện duy nhất cho sự hình thành của một tín ngưỡng.

Như đã nói ở trên, Đấng Giáo chủ của Cao Đài giáo không phải bằng xương bằng thịt, nhưng là vô hình, và Đấng Giáo chủ đó không ai khác hơn là chính Đấng Thượng Đế tối cao toàn năng.

Bởi thế, chúng tôi thiết nghĩ cũng nên làm sáng tỏ thêm vấn đề tế nhị ở đây là, với một trường hợp như thế, Cao Đài giáo liệu có thể được công nhận như là một đạo giáo không?

Có người quan niệm rằng Cao Đài giáo chỉ là một tổng hợp của các tôn giáo khác. Những hình thức lễ nghi, tế tự, cũng như những nội dung giáo lý, tín điều trong Cao Đài giáo đều chỉ là những chấp nối của các tôn giáo khác mà thôi.

Nhận xét như vậy tức là bỏ quên một điều tối hệ được coi như một căn nguồn cho một đức tin mới trong Cao Đài giáo. Đó là nội dung của Thánh huấn. Ở đây chúng tôi không thể đi sâu hơn vào một vấn đề chuyên môn mà thực ra nó chẳng giản dị chút nào đối với ngay cả những nhà tôn giáo.

Tuy nhiên, theo sự nhận định thô thiển của chúng tôi, chúng tôi nghĩ rằng, như đã nói ở trên, Cao Đài giáo là một tôn giáo đặt căn bản trên Thông Linh học, và điều mà người ta có thể coi hiển nhiên, Thông Linh học chỉ là một môn học thuật hơn là một khoa học, nghĩa là trong lãnh vực nghiên cứu đó, sự khảo sát và thêm vào đó những kết quả của loại suy (Analogie) thường được minh định một cách dễ dàng hơn là những công trình kiểm chứng trong việc xác định giá trị của nó.

Thật vậy, người ta khó lòng mà cắt nghĩa những nguyên động lực nào đã tác động trên những đồng tử và tác động theo cách nào để có thể tạo ra một bản Thánh huấn. Lại nữa, người ta có thể hoài nghi về những thần lực vô hình, vì cũng như trong thế giới hữu hình của chúng ta, trong thế giới vô hình vẫn có những thần lực chính đạo và những thần lực tà đạo.

Tuy nhiên, với những kết quả đã thâu lượm được trong sự giáng cơ đề bút, người ta vẫn có thể phần nào giải quyết được vấn nạn đó sau khi đã khảo sát và nghiên cứu nội dung của Thánh huấn để tìm một sự xứng hợp thích đáng và hữu lý giữa nội dung của Thánh huấn và óc suy nghĩ của con người.

Chẳng cần phải nói dông dài, tất cả những công trình Cao Đài giáo, từ những chứng kiện cụ thể, như cơ cấu kiến trúc kỳ diệu của Tòa Thánh Tây Ninh cùng với hệ thống các cơ sở của nó, cho đến những bộ giáo lý, giáo lễ, giáo luật, cùng với hệ thống tổ chức chặt chẽ thành phần các Chức sắc trong nền Đạo, thảy đều tuân rập theo những phán truyền trong các Thánh huấn mà lập thành.

Điều đó chứng minh sự thật kỳ diệu của các Đấng Chơn linh trong việc thành lập một tôn giáo mới cho nhơn loại, và nó cũng chứng minh hùng hồn một tôn giáo thành lập theo một tính cách như thế, quả thật là hợp lý và siêu việt.

Với tất cả những công trình cụ thể trên, với một quá trình 40 năm hoạt động theo tôn chỉ hòa đồng nhơn loại trong tinh thần huynh đệ bình đẳng, nâng cao, phát triển tinh thần đạo lý rộng lớn trong xã hội cộng đồng, và đặc biệt cách mạng hóa tinh thần quan niệm về tôn giáo trong việc thờ phượng và tế tự. Cao Đài giáo khai mở một đường lối dung hợp rộng lớn các tôn giáo trên căn bản duy tồn những giá trị tinh túy và gạt bỏ những sai lệch méo mó gần như không thể tránh được mà thời gian lịch sử loài người đã mang đến cho các tôn giáo đó.

Trong đường lối đó, Cao Đài giáo chỉ trong một thời gian chưa đầy 40 năm đã thu hút hằng triệu (hơn hai triệu rưỡi tín đồ trong nước) tín đồ trong nước và ngoài nước.

Cao Đài giáo là một tôn giáo mới và đang tiến triển trong cái mới, và cái mới đó chẳng gì hơn là cái mới phát xuất từ những cái rất cũ trong các tôn giáo chính thống. Bởi thế, Cao Đài giáo, dưới sự hướng dẫn trực tiếp vô hình của Đấng Thượng Đế toàn năng, cùng các Đấng Chơn sư, mặc nhiên và minh nhiên liên hệ mật thiết với các tôn giáo chính thống kia. Do đấy, một cách cụ thể nhất, Cao Đài giáo chính là một dạng thức chung của các tôn giáo chính thống. Và cũng do đấy mà sự hợp lý và hợp pháp nếu có trong công cuộc hoạt động trong quốc gia xã hội của các tôn giáo kể trên cũng là sự hợp lý và hợp pháp của chính Cao Đài giáo vậy.

III. NHẬN ĐỊNH HIẾN CHƯƠNG:

Bản Hiến chương của ĐĐTKPĐ gồm 12 chương. Xuyên qua tất cả 12 Chương nầy, chúng tôi nhận thấy quả thật là một Hiến Chương thuần túy tôn giáo, không hàm chứa một tính chất chánh trị hay thương mãi.

- Về phương diện Lễ nghi thờ phượng, ĐĐTKPĐ là một tôn giáo đặc biệt thờ Thiên Nhãn, biểu tượng Đức Thượng Đế tối cao duy nhứt đúng theo tôn chỉ: Qui nguyên Tam giáo, Phục nhứt Ngũ chi, thờ phượng các Đấng Giáo chủ Tam giáo và Ngũ chi cùng các Đấng Linh Thần đã siêu hóa.

- Về phương diện tổ chức cơ cấu tôn giáo, chúng tôi thấy ĐĐTKPĐ quả thật là một tôn giáo có một tổ chức hệ thống đặc biệt. Điều nầy được ghi rõ trong Chương 3.

Cơ cấu ĐĐTKPĐ đại khái chia làm ba cơ cấu: HTĐ, CTĐ và BQĐ.

Một đặc điểm cốt yếu làm cho ĐĐTKPĐ khác hẳn các tôn giáo khác là sự liên thông thường xuyên giữa Thiên đạo và Thế đạo qua hiện tượng giáng cơ đề bút, và đây chính là phần hoạt động của HTĐ, lập pháp của Đại Đạo.

Kế tiếp HTĐ là CTĐ tức là cơ quan hành pháp. Những vị Chức sắc phục vụ trong cơ quan nầy có nhiệm vụ nghiên cứu luật pháp đạo, phổ truyền giáo lý và thực hiện những mục tiêu cứu rỗi nhơn sanh trong các hoạt động từ thiện.

Sau hết là BQĐ, cơ quan nầy yếu nhiệm trong việc thờ phụng Đấng Thượng Đế tá danh Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát và các Đấng Giáo chủ Tam giáo và các Đấng thiêng liêng trong Ngũ Chi Đại Đạo.

Hệ thống Chức sắc trong cả ba cơ quan trên được tổ chức chu đáo, liên hệ chặt chẽ với nhau. Tất cả những Chức sắc nầy được gọi là Thiên phong, nghĩa là do Đức Thượng Đế giáng cơ phong chức. Riêng trong CTĐ, Chức sắc được chia làm hai phái: Nam và Nữ.

Nữ phái có nhiệm vụ giúp đỡ các sinh hoạt của Đạo, săn sóc các Đạo hữu như anh lớn trong gia tộc.

Cũng như các tôn giáo khác, Hội Thánh Cao Đài Trung ương đặt tại Thánh địa Tòa Thánh Tây Ninh. ĐĐTKPĐ còn thiết lập nhiều Thánh Thất ở khắp các địa phương để tín đồ đến lễ bái.

Chương VI ghi rõ, hễ nơi nào có trên 500 tín đồ thì được lập một Họ Đạo hay Tộc Đạo, đặt riêng một Thánh Thất và có một Chức sắc làm đầu cai trị. Các Họ Đạo hay Tộc Đạo nầy hiệp lại thành một Châu Đạo, đứng đầu bởi một Chức sắc cao cấp hơn.

ĐĐTKPĐ, ngoài việc tổ chức hệ thống các cơ sở thờ phượng và tu hành để cho các Chức sắc trong Đạo có nơi ăn chỗ ở, thăng tiến công cuộc tu chứng, Đại Đạo còn chú trọng sâu xa đến các công cuộc từ thiện trong cộng đồng xã hội bằng cách thiết lập nhiều cơ sở quan trọng như Viện Cô Nhi, Dưỡng Lão, các trường sở miễn phí, để cụ thể hóa tinh thần hy sinh cao cả, lòng từ bi bác ái của Chức sắc.

Xét bản Hiến Chương nầy, chúng tôi thấy ĐĐTKPĐ tuy là một tôn giáo mới mà lại có một hệ thống tổ chức thật hoàn bị và chặt chẽ. Song song với công việc nghiên cứu Thánh huấn cùng tầm khảo các kho tàng đạo lý cổ xưa để thiết lập một nền Đại Đạo vững chắc thích ứng với trình độ tiến hóa của xã hội ngày nay.

ĐĐTKPĐ còn đặt nặng vấn đề hoạt động từ thiện trong cộng đồng xã hội, mục tiêu cụ thể và thiết thực của một đạo giáo là để giảm bớt nỗi thống khổ của con người trong thời đại gạo châu củi quế nầy.

Với những nhận định sơ lược trên, chúng tôi thiển nghĩ bản Hiến Chương của Đại Đạo quả thực đã biểu lộ được một tinh thần hoạt động thuần túy tôn giáo, một đường lối chủ trương và tổ chức hoàn toàn có tính cách khuynh tôn, nâng cao tinh thần phục vụ cho tín ngưỡng cao diệu và giải độ cứu rỗi chúng sanh.

Như vậy, bản Hiến Chương chứng tỏ Đại Đạo có một đường lối hoạt động của một tôn giáo thuần túy chứ không phải của một hiệp hội có tính cách thương mãi hay chánh trị.

Qua những nhận xét trên, chúng tôi nhận thấy đây là một tôn giáo mới, mới trong một trường hợp hiện hữu kỳ diệu, dưới sự dẫn hướng trực tiếp của Đấng Thượng Đế, mới trong tinh thần hòa đồng rộng lớn và mới phát xuất từ những gì rất cũ của các tôn giáo khác.

Tất cả những điều đó diễn tả một sự hãnh diện của chính dân tộc VN, một dân tộc đã và đang bị một thứ "chiến tranh chủ nghĩa" vầy xéo.

Cao Đài giáo là một tôn giáo xuất hiện trên dãy đất của chúng ta, nhưng là một tôn giáo của toàn thể nhơn loại. Với một tinh thần hòa đồng rộng lớn, chúng tôi thiết nghĩ chỉ có Cao Đài giáo trong sứ mệnh thiêng liêng của nó, và cũng là trong sự cần thiết duy nhứt của VN và của toàn nhơn loại ngày nay, mới có thể, ít ra là trên mặt trận văn hóa, giải quyết được những tranh chấp bi đát hiện tại cho đất nước.

Bởi lẽ đó, đứng trên cả hai quan điểm tôn giáo và chánh trị, chúng tôi nhận thấy việc xác nhận và công nhận ĐĐTKPĐ có đủ tư cách pháp nhân là một điều hợp lý và chính đáng vậy.

Thuyết trình viên: NGUYỄN LƯƠNG HƯNG.

 

Sắc Luật Số  003/65 ngày 12-7-1965


 

SẮC LUẬT SỐ 003/65 ngày 12-7-1965
cho phép Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ hoạt động theo
Hiến Chương ngày 21-1-1965.

CHỦ TỊCH ỦY BAN LÃNH ĐẠO QUỐC GIA

 

Chiếu Ước Pháp ngày 19 tháng 6 năm 1965.

Chiếu Quyết Định số 3-QLVNCH/QĐ ngày 14-6-1965 của Đại Hội Đồng các Tướng lãnh Quân lực VNCH thành lập và ấn định thành phần Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia.

Chiếu Sắc Lệnh số 001-a CT/LĐQG/SL ngày 19-6-1965 ấn định thành phần Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương.

Chiếu Dụ số 10 ngày 6-8-1950 sửa đổi bởi Dụ số 24 ngày 19-11-1952 và Dụ số 6 ngày 3-4-1954, ấn định qui chế Hiệp hội.

Chiếu đề nghị của Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia thảo luận và biểu quyết,

SẮC LUẬT

Điều thứ 1: Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ được phép hoạt động trên toàn lãnh thổ Việt Nam theo Hiến Chương ngày 21-1-1965 đính theo Sắc Luật nầy.

Điều thứ 2: Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ có tư cách pháp nhân, được quyền sở hữu, thủ đắc, tạo mãi hoặc chuyển nhượng những động sản và bất động sản cần thiết để đạt mục đích của Giáo Hội.

Những bất động sản đó gồm có Tòa Thánh và những Thánh Thất, Tịnh Thất, trụ sở và các cơ sở hoạt động văn hóa xã hội.

Điều thứ 3: Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ được quyền thâu nhận những tài sản do các thể nhân hay pháp nhân sinh tặng hoặc di tặng.

Điều thứ 4: Dụ số 10 ngày 6-8-1950 ấn định qui chế Hiệp hội và các luật lệ trái với Sắc Luật nầy, không áp dụng cho Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

Sắc Luật nầy sẽ đăng vào Công báo Việt Nam Cộng Hòa.

Sài Gòn, ngày 12 tháng 7 năm 1965.
(ấn ký)

 

Hiến Chương Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ 1965


 

HIẾN CHƯƠNG
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Hội Thánh Cao Đài)

 

Chương I: DANH HIỆU - HUY HIỆU - ĐẠO KỲ

Điều thứ 1: Danh hiệu là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, nói tắt là Đạo Cao Đài.

Điều thứ 2: Hội Thánh Cao Đài đặt địa điểm trung ương tại Tòa Thánh Tây Ninh.

Điều thứ 3: Huy hiệu tượng trưng cho Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là hình 3 cổ pháp:

  • Bình Bát vu (biểu tượng Thích giáo)

  • Cây Phất chủ (biểu tượng Lão giáo)

  • Quyển Xuân Thu (biểu tượng Nho giáo)

Điều thứ 4: Đạo kỳ của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là Tam Thanh:

  • Màu vàng biểu hiệu Thái Thanh, tượng trưng Phật giáo.

  • Màu xanh (xanh da trời) biểu hiệu Thượng Thanh, tượng trưng Tiên giáo.

  • Màu đỏ biểu hiệu Ngọc Thanh, tượng trưng Thánh giáo.

Điều thứ 5: Cách thờ phượng và cúng kiếng:

Thờ:   Thiên Nhãn.
Cúng:   Bông chỉ về Tinh,
Rượu chỉ về Khí,
Trà chỉ về Thần.

Tinh, Khí, Thần là tam bửu của các Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật.

Chương II: GIÁO LÝ - TÔN CHỈ và MỤC ĐÍCH

Điều thứ 6:

  1. Giáo lý của Đại Đạo là tinh ba của giáo lý Tam giáo (Thích, Đạo, Nho) và của Ngũ chi (Nhơn đạo, Thần đạo, Thánh đạo, Tiên đạo, Phật đạo) để hoằng dương chánh pháp.

  2. Tôn chỉ là cầu xin cứu rỗi các chơn linh khỏi sa đọa hồng trần.

  3. Mục đích là giáo hóa nhơn sanh, lập đại đồng huynh đệ.

Chương III: HỆ THỐNG TỔ CHỨC HỘI THÁNH

Điều thứ 7: ĐĐTKPĐ gồm có 3 Đài tượng trưng hình thể Đại Đạo tại thế.

  • Hiệp Thiên Đài: thể hiện chơn thần thuộc Khí.

  • Cửu Trùng Đài: thể hiện cơ thể thuộc Tinh.

  • Bát Quái Đài: thể hiện linh hồn thuộc Thần.

Điều thứ 8: Hiệp Thiên Đài.

HTĐ là cơ quan lập pháp của Đạo, là nơi để thông công cùng Đức Thượng Đế và các Đấng thiêng liêng bằng cơ bút do Chức sắc HTĐ phò loan để tiếp các Thánh ngôn và luật pháp đạo của các Đấng thiêng liêng giảng dạy.

Hội Thánh HTĐ gồm các Chức sắc Thiên phong theo phẩm trật sau đây:

  • 1 phẩm Hộ Pháp chưởng quản HTĐ và bảo hộ luật đời và luật Đạo.

  • 1 vị Thượng Phẩm lo về mấy Thánh Thất và Tịnh Thất.

  • 1 vị Thượng Sanh lo về phần đời.

  • 12 vị Thời Quân thuộc 3 Chi: Pháp, Đạo, Thế, đặt dưới quyền hành sự của Hộ Pháp, Thượng Phẩm và Thượng Sanh.

Điều thứ 9: Cửu Trùng Đài.

CTĐ là cơ quan Hành chánh của Đạo.

Hội Thánh CTĐ gồm các Chức sắc Thiên phong theo các phẩm trật sau đây:

NAM PHÁI

  • 1 phẩm Giáo Tông, lãnh đạo tối cao toàn đạo, có phận sự dìu dắt Đạo hữu trong đường Đạo và đường đời.

  • 3 vị Chưởng Pháp, lãnh nhiệm vụ nghiên cứu luật pháp Đạo trước khi ban hành cho toàn đạo.

  • 3 vị Đầu Sư, cầm quyền chánh trị đạo, ban hành luật pháp đạo.

  • 36 vị Phối Sư, có 3 vị Chánh Phối Sư làm đầu, dưới quyền 3 vị Đầu Sư cai trị Đạo.

  • 72 vị Giáo Sư, có phận sự dạy dỗ Đạo hữu trong đường Đạo và đường đời, được quyền dâng sớ cầu nài về luật lệ làm hại nhơn sanh hay là cầu xin chế giảm luật lệ ấy.

  • 3000 Giáo Hữu chia đều mỗi phái 1000 vị, chẳng tăng thêm hay là giảm bớt, lãnh phận sự phổ thông Chơn đạo.

  • Lễ Sanh, không hạn định số. Lễ Sanh là người có hạnh kiểm tốt, được quyền đi khai đàn cho mỗi tín đồ.

NỮ PHÁI

Chức sắc nữ phái khởi từ phẩm Đầu Sư trở xuống Lễ Sanh.

Điều thứ 10: Bàn Trị Sự. Bàn Trị Sự là cơ quan hành đạo trong thôn xã gồm những Chức việc sau đây: 1 Chánh Trị Sự, 1 Phó Trị Sự, 1 Thông Sự, có nhiệm vụ giúp đỡ các sinh hoạt của đạo và săn sóc các Đạo hữu như anh lớn trong gia tộc.

Điều thứ 11: Bát Quái Đài.

BQĐ là ngôi thờ phụng Đức Thượng Đế, tá danh Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát, và các Đấng Giáo chủ Tam giáo cùng các Đấng thiêng liêng trong Ngũ Chi Đại Đạo: Nhơn đạo, Thần đạo, Thánh đạo, Tiên đạo, Phật đạo.

Chương IV: CHỨC SẮC và TÍN ĐỒ.

Điều thứ 12: Đạo hữu thọ phong các phẩm từ Giáo Hữu sắp lên tới Giáo Tông đều là Chức sắc, lựa chọn trong hàng thượng thừa mà thôi.

Điều thứ 13: Những người nam hay nữ, không phân biệt quốc tịch, màu da, tuổi tác, giai cấp, nghề nghiệp, đảng phái, đến thọ lễ Nhập môn đều được nhìn nhận là tín đồ ĐĐTKPĐ.

Chương V: ĐẠO PHỤC.

Điều thứ 14: Đạo phục của Hội Thánh nam phái CTĐ là

  • Màu vàng của Chức sắc thuộc Thái Thanh.

  • Màu xanh da trời của Chức sắc thuộc Thượng Thanh.

  • Màu đỏ của Chức sắc thuộc Ngọc Thanh.

Có mão riêng từng cấp bậc.

Điều thứ 15: Đạo phục của Nữ Chức sắc CTĐ là toàn trắng (có ni-cô riêng từng cấp bậc).

Điều thứ 16: Đạo phục của Chức sắc HTĐ là toàn trắng (có mão riêng từng cấp bậc).

Điều thứ 17: Đạo phục của thiện nam tín nữ là áo dài trắng, khăn đóng đen.

Chương VI: HỌ ĐẠO.

Điều thứ 18: Nơi nào có trên 500 tín đồ thì được lập riêng một Họ Đạo hay Tộc Đạo, đặt riêng một Thánh Thất, có một Chức sắc làm đầu cai trị.

Các Họ Đạo hay Tộc Đạo trong một tỉnh hiệp lại thành một Châu Đạo, có vị Chức sắc cao cấp hơn cai quản.

Chương VII: TÒA THÁNH - THÁNH THẤT - TỊNH THẤT

Điều thứ 19: Tòa Thánh Trung Ương (Tây Ninh) là nguồn gốc khai sáng Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

Điều thứ 20: Các ngôi thờ Đức Chí Tôn ở các địa phương trong nước hay ngoài nước đều gọi là Thánh Thất và Tịnh Thất.

Chương VIII: PHƯỚC THIỆN

Điều thứ 21: Phước Thiện là cơ quan lo về xã hội, tế độ người tật nguyền cô độc, kẻ gặp tai ương thống khổ.

Điều thứ 22: Trong Cơ Quan Phước Thiện cũng có Chức sắc làm âm chất thuộc Thập nhị Đẳng cấp thiêng liêng, không dự vào Hành chánh đạo, được lập cơ sở lương điền công nghệ thâu huê lợi tạo nền nhân cội nghĩa.

Chương IX: HỘI QUYỀN VẠN LINH

Điều thứ 23: Đại Hội ĐĐTKPĐ là Hội Quyền Vạn Linh, mỗi năm họp một lần tại Tòa Thánh Tây Ninh.

Chương X: TÀI SẢN

Điều thứ 24: Tài sản của ĐĐTKPĐ gồm có:

  • Động sản và bất động sản do nhơn sanh hiến cúng hoặc chuyển nhượng.

  • Động sản và bất động sản do ĐĐTKPĐ tự tạo.

Chương XI: PHƯƠNG PHÁP ÁP DỤNG

Điều thứ 25: Để áp dụng Hiến Chương nầy, bản Tân Luật, Pháp Chánh Truyền, Đạo Luật và Kinh Lễ được coi là qui chế có tánh cách Nội qui.

Điều thứ 26: Hiến Chương nầy có thể sửa đổi do Hội Thánh lập Hiến Chương nầy bằng đa số 2/3 tổng số Chức sắc Hội Thánh và sau khi được Đức Chí Tôn phê chuẩn.

Chương XII: THỐNG NHẤT

Điều thứ 27: Hiến Chương nầy sẽ là luật căn bản thống nhứt đối với tất cả Chi phái nào ngày sau chấp nhận và ký tên.

Làm tại Tòa Thánh Trung Ương,
ngày 19 tháng 2 Giáp Thìn (21-1-1965 dl).

T.M. Hội Thánh Tòa Thánh Tây Ninh:

Q. Chưởng quản HTĐ
Bảo Thế LÊ THIỆN PHƯỚC
(ấn ký)
Đầu Sư CTĐ
THƯỢNG SÁNG THANH
(ấn ký)
 
DUYỆT Y

Đính theo Sắc Luật số 003/65
Ngày 12 tháng 7 năm 1965.
Sài Gòn, ngày 12 tháng 7 năm 1965.
CHỦ TỊCH ỦY BAN LÃNH ĐẠO QUỐC GIA
(ấn ký)

TTTN: Tòa Thánh Tây Ninh.
ÐÐTKPÐ: Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.
VNCH: Việt Nam Cộng Hòa.
BQÐ: Bát Quái Ðài.
HTÐ:
Hiệp Thiên Ðài.
CTÐ: Cửu Trùng Ðài.

Xem tiếp: Pháp siêu quần Thánh

 
 
PHA
PHE
PHI
PHO
PHU

[ Hình bìa ]
[ Mục lục ]

Last changed: 11-01-2005