Increase Font Size Decrease Font Size Reset Font Size

Đại Hội Ân Tình 6




T. T. Lê Minh Đảo
Bài Mới Nhất
Buồn Tàn Thu (Trang Chính)
Bởi Mường Giang
Băng chào mừng quan khách, đồng hương, chiến hữu Bình Thuận Đại Hội Ân Tình VI - KHÔNG QUÊN BÌNH THUẬN QUỐC NỘI Ban Hành Chánh và Ban Tiếp Tân Đại Hội Ân Tình VI Khai mạc Đại Hội Ân Tình VI Một số anh chị em trong ban tổ chức Đại Hội Ân Tình VI MC VIệt Thảo và nhạc sĩ Nguyên Phan Gia đình Nguyễn Thị Dung Phát biểu tại Đại Hội Ân Tình VI Vinh danh Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa Nghị Viên Micheal Minh Võ (Fountain Valley) và Phó Thị Trưởng Tạ Đức Trí (Westminster)  Từ Hạ Uy Di, Úc Châu, Âu Châu, Mỹ Châu ... về dự Đại Hội Ân Tình VI Văn nghệ giúp vui Đại Hội Ân Tình VI Một nụ cười tươi, một mái tóc bạc ... gởi niềm thương nhớ về Bình Thuận quốc nội
Bài Viết
Những Ngày Cuối Cùng Tại Tỉnh/Tiểu Khu Bình Thuận
Bởi Mường Giang
Ba mươi tám năm về trước, thành phố Phan Thiết sau mấy cơn mưa đầu mùa, đẫm đầy nước mắt, máu lệ và đạn pháo kích của quân Bắc Việt, thêm sự tàn phá ghê gớm của đám đặc công, quân phạm, trà trộn trong đoàn di tản từ Miền Trung về, làm cho tháng 4-1975 mùa hè hoa phượng, không còn thơm nồng trong những trang lưu bút. Khắp nơi, những trận đánh long trời lở đất đã diễn ra hằng ngày, càng lúc càng ập sát Phan Thiết cũng như Sài Gòn. Trong cơn mưa rào nước mắt tháng Tư, mọi người ai củng cố dầm mưa, để níu lấy một chiếc giây diều tuổi nhỏ, đang mong manh sắp đứt giữa cơn bão tố loạn cuồng.

            Năm đó mưa đến sớm bất ngờ theo với tiếng súng nổ. Phía xa trên đỉnh Trường Sơn, lửa đạn cùng với giông chớp làm rung động đất trời. Những người lính trận Bình Thuận, đêm ngày phờ úa với chiếc ba lô và đạn súng, chạy theo cơn lốc giữa đời nhưng không biết rồi đời sẽ đi về đâu, vào những ngày tháng tư lửa loạn.

            Suốt thời tuổi thơ sống ở Phan Thiết, đã quen với màu hoa phượng vỹ ven đường Nguyễn Hoàng dẫn vào lớp học và tiếng ve rên tỉ tê trong mấy gốc vông già trong Lầu Nước, một niềm chờ đợi, một cõi đam mê, một hồn cô đơn trống lạnh. Nhưng sao tháng tư năm đó, màu hoa phương kể cả tiếng ve ran, như đã đổi thay một cách lạ lùng. Bởi vì màu phượng không còn là má em hồng thắm mỗi khi e thẹn, còn tiếng ve lại nỉ non rên khóc khiến cho người lính trận thêm đứt ruột, buồn rầu.

            Những ngày tháng Tư, Phan Thiết càng lúc càng thêm cô quạnh vì một số lớn người thành phố, trong số này hiện diện không ít các cấp chỉ huy quân cán chính có phương tiện đã nối tiếp di tản về Nam lánh tai ương chiến nạn. Ðây là một sự thật não nùng của ba trăm hai chục năm Bình Thuận, một nơi chốn luôn khóc tiển nhưng người đi, bọn nhà giàu sau khi vơ vét đầy bao bố tiền vàng chạy về Sài Gòn lập nghiệp ẩn tích làm sang. Lũ khoa bảng thành đạt, những kẻ sống nghề cầm ca xướng hát, khi nổi tiếng với đời, cho dù có chôn nhao cắt rún ở dây, cũng vẫn cố chối, vì sợ mang tiếng với thiên hạ bởi mùi nước mắm, cá mực và rơm rạ nơi thôn ổ quê mùa. Nên những ai còn lại chắc là người nghèo, nhưng cũng ở lì trong nhà vì thời thế không biết đâu mà mò.

             Khắp nơi, ngoài gió mưa, bom đạn, gần như chỉ còn có những người lính trận, lúc nào cũng nhạt nhòa vì lệ và giọt mưa cô đơn, lăn veo trên hai khóe mắt. Cứ đánh nhau và tiếp tục thay phiên chôn xác đồng đội, đồng bào bạn bè, giữa những cơn mưa sau chiến trận. Thảm nhất là lúc mà cỏ xanh vữa phủ đẹp trên nấm mộ của người lính, thì tháng 5-1975 mất nước, vài ngày sau đó, người chết tử thi chưa rã, đã bị dầy mồ xới mộ để trả thù. Tháng Tư, những căn hầm tránh đạn của lính , ngày mưa đêm gió, nước ngập tới võng, khiến cho lính lẫn quan cứ mở to đôi mắt để mà nghe tiếng nước từ trời ùa vào hầm sắp ngập tới bụng mình.

            Thân phận của người lính miền Nam là như vậy. Ngoài kia bom đạn của cả hai phía, ác liệt từng giây. Phải cám ơn những giọt mưa đã làm nhạt nhòa nước mắt của người lính, bao chục năm đã sống âm thầm, chịu đựng hy sinh, giữa một xã hội vong ân bạc nghĩa như chưa từng biết đến nỗi đau thương và chết chóc bao giờ.

            Ra đời trong một đêm mưa đại bác, thời gian Pháp và Việt Minh đánh đấm loạn ngầu, ngay trong những đường phố Phan Thiết. Năm 1945 Việt Cộng cướp chính quyền, ba má bỏ thành phố, gánh anh em tôi, giữa cơn mưa chạy loạn. Từ đó cho tới nay, mưa và khói lưa cứ theo tôi hành hạ một đời. Ở đây nơi quê người, vậy mà cũng đã mấy chục mùa mưa đợi chờ thương nhớ.

             Năm nay tháng Tư tuổi già, nhưng mà hồn sao vẫn cứ ngơ ngác , như muốn chực ôm choàng lấy mùa hè, hoa phượng . Ngồi trong nhà đếm giọt mưa tí tách, lại cứ tưởng tiếng mưa năm nào, gõ nhịp trên tàu chuối sau hè. Mưa Phan Thiết giống mưa Hạ Uy Di, bất chợt từng cơn đổ như trút nước và ngưng. Nhưng mưa nào cũng buồn, nhất là những ngày tháng tư gợi nhớ, năm nao ngày mưa hò hẹn tình đầu. Năm nay cũng vẫn năm nào, một mình cứ chạy ngược thời gian, trở về tuổi thơ, vẫn còn núp lén đâu đó. Cuối cùng rồi cũng nắm được áo em, đồng đội trong giọt nước mắt cuối đời, khi chuyến tàu ngược đường dỹ vãng, vừa ghé ga Phan Thiết, đúng vào những ngày tháng tư mất nước, của ba mươi tám năm về trước, mà khóc và cô đơn trong nổi đổi đời..

            Thật thắm thiết biết bao, khi đọc lại những lời tâm sự đầy nước mắt của Ðốc Sự Phạm Ngọc Cửu, một viên chức hành chánh, đã phục vụ tại Bình Thuận nhiều năm, từ Phó Quận trưởng Hải Long, Trưởng Ty Kinh Tế, Chánh Văn Phòng cho tới chức vụ cuối cùng là phó tỉnh trưởng. Ông viết ‘Chỉ có những kẻ tự cho rằng mình hoàn hảo, chỉ có những kẻ không làm một cái gì cả, để thấy khả năng mình ở đâu? Nhưng lúc nào cũng chờ cơ hội để mà phê bình chỉ trích’. Chính những kẻ này mới ganh tị, phỉ báng và bôi xấu quê hương mình.

             Ngày nay, trang sử Bình Thuận vẫn còn đó, hồn thiêng sông núi Phan Thành cũng đâu có tan biến, nên lúc nào anh linh của các cán bộ, chiến sĩ, đồng bào bị VC thảm sát oan khiên hay gục ngã khi đối mặt với giặc thù .Máu của họ đã tưới hồng thêm ruộng đồng, sông núi của quê hương. Tất cả đã trở thành những thiên hùng ca bất tử của quân dân Bình Thuận, cho dù xác thân của họ ngày nay đã tan biến theo cát bụi , vì mồ mã đã bị VC liên tiếp san bằng hay ra lệnh di dời, để lấy đất bán cho Việt kiều, xây khách sạn, sân golf và các tụ điểm du lịch.

“tháng Tư đen, máu xương càng thêm đẩm
giặc tràn về, mở tù ngục, pháp trường
gây kinh hoàng, gieo tang tóc, thê lương
khiến trời đất cũng bôn đào lánh nạn

lính ở lại, lãnh đòn thù, quốc hận
cùng dân đen, chết rục rã, xương khô
xưa lót đường, để ai dựng cơ đò
nay thân xác, bón rừng xanh thêm lá..”

(thơ Mường Giang)

1-Ngày 4-4-1975 : Bỏ Ngõ Bình Thuận.
        
            Sáng mồng một tháng 4-1975, một cuộc họp được coi là lịch sử, đã được tổ chức tại phòng khách danh dự  trong Tòa Hành Chánh tỉnh, gồm Ban Chỉ Huy Hành Chánh, Tiểu Khu và bảy quận trưởng. Ðây là một buổi họp đặc biệt, mục đích để tìm cách đối phó hữu hiệu với đoàn di tản chiến thuật, từ Cao Nguyên và Miền Trung, sắp tới Phan Thiết vì kể từ đêm qua tới nay, Bình Thuận vẫn không hề nhận được một chỉ thị hay câu trả lời "Ðã ghi nhận", chừng ấy thôi, từ BTL SD23BB, QD2,Trung tâm hành quân của Bộ TTM/QLVNCH và Phủ Thủ tướng. Thời gian này, tại địa phương, VC chỉ quấy rối lẽ tẽ nhưng không gây thiệt hại nào đáng kể. Xa hơn, tình hình chiến sự Lâm Ðồng, vừa được Trung Tá Tỉnh Trưởng Vương Ðăng Phong cho biết rất sôi động, nhất là tại mặt trận giáp ranh với Quận Ðịnh Quán (Long Khánh). Phía Nam, QL 1 đã bị VC bít cứng ở Rùng Lá (Bình Tuy), quân số tập trung cả Quân đoàn, với ý đồ chuẩn bị một trận tấn công khủng khiếp vào SÐ18BB tại Xuân Lộc. Ở Bình Tuy cũng đã lập một nút chặn rất hùng hậu, từ Căn cứ 10, ở Ngả ba cây số 46 chạy tới Thị xã La Gi, với mục đích giải giới Ðoàn quân trên.

            Như vậy đoàn di tản chắc chằn sẽ bị khựng lại và dội ngược về Bình Thuận, chừng đó Phan Thiết sẽ hứng chịu toàn bộ sức nặng này. Ðể giải quyết một biến động tàn khóc, mà không một thẩm quyền nào, từ Trung Ương cho tới Quân Khu và các Tỉnh Thị đã bó tay, nên các cấp chỉ huy tại Bình Thuận, trong cuộc họp trên, đã đề nghị thật nhiều giải pháp như nhờ BTL.Không và Hải Quân, yểm trợ phương tiện, chuyển vận đoàn di tản từ Bình Thuận về Nam bằng máy bay và chiến hạm. Laị có những đề nghị có tính cách quân sự  như dùng mìn, đánh sập vài chiếc cầu lớn trên QL1, hay xử dụng pháo binh làm thành hàng rào hỏa lực và cuối cùng là thiết lập một nút chặn tại Cà Ná, ranh giới giữa Quân Tuy Phong và tỉnh Ninh Thuận.

            Nhưng dù có gọi cuộc di tản trên bằng một cái tên nào chăng nửa, thì đối với những người có trách nhiệm tại Bình Thuận, nó cũng được đánh giá như một cuộc tấn công vĩ đại nhất  từ trước tới nay, trong lịch sử chiến tranh của Ba Trăm Hai Chục Năm Miền Biển Mặn. Trong khi đó, không một ai có đủ thẩm quyền bắt nó dừng lại, mà chỉ hy vọng giới hạn phần nào sự tàn phá của nó, để tiết kiệm bớt máu xương của đồng bào, giảm thiểu thiệt hại vật chất, giữ được tinh thần chiến đấu của quân, cán, chính trong tình huống sôi động này.

            Hơn nữa các đối tượng trước mắt, tuyệt đại đa số không phải là địch, mà là một lực lượng vì hoàn cảnh phải di tản chiến thuật. Nên dù không một cấp chỉ huy nào nói ra hay chỉ thị, thì ai cũng phải hiểu rằng nó phải được che chắn an toàn, để tái phối trí, chứ không phải là đoàn quân phản loạn, thật sự chống lại quân Chính Phủ như tại Vùng I Chiến Thuật, vào những năm xáo trộn 1965-1967. Do đó,không một ai dám, kể cả Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, Ðại Tướng Cao Văn Viên vào lúc đó, công khai ra lệnh tàn sát Họ. Cuối cùng cho dù có ra mặt đối phó, liệu ngăn cản đuợc hay không, trước một lực lượng đông đảo, tuy là ô hợp nhưng cũng đủ xe tăng, đại pháo, quân số và súng đạn để trả thù, tàn sát, tàn phá và cảnh nồi da xáo thịt giữa những người lính cùng chung một màu cờ sắc áo lại tái diễn, chẳng những có lợi cho giặc, mà còn trúng kế bọn Việt gian phản tặc, đám khoa bảng trí thức thân Cộng, đang thấp thỏm theo dõi tình hình từng giây phút, để mà viết bài đăng báo, làm vui đảng và ‘bác Hồ tặc Nguyễn Tất Thành‘. Ðó là một bài toán nát óc, một sự khó khăn nhất trong cuộc đời quân ngũ, mà Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa Tỉnh/Tiểu Khu Trưởng phải quyết định trong phiên họp lịch sử hôm đó “Bỏ Ngõ Thành Phố Phan Thiết “ suốt thời gian Ðoàn Di Tản đi ngang qua.

            Rồi điều không ai muốn cũng phải làm trong khi đợi chờ. Tất cả đặt trong tình trạng báo động cao nhất. Ðối với các Ðơn Vị đóng dọc QL1, được lệnh lùi sâu vào phía trong, để tránh tình trạng ngộ nhận, khiêu khích giữa hai phía, và phải trở lại vị trí cũ ngay, để bảo vệ cầu đường thông suốt và ngăn chận mọi sự tấn công, đóng chốt của địch.

            Tại Phan Thiết, bắt đầu ngày 2-4-1975, đã có một số đồng bào và các gia đình cán bộ, công chức, quân đội., hưởng ứng theo lời kêu gọi của chính quyền địa phương, đã tạm thời thu xếp lánh ra ngoại ô nhất là Phú Hài, Rạng, Mũi Né để tạm lánh nạn. Ty Dân Vận Chiêu Hồi, Ðại Ðội Chiến Tranh Chính Trị, Tỉnh Ðoàn CB/XDNT cùng với Xã Châu Thành Phan Thiết, cũng đã sử dụng tất cả phương tiện truyền thanh, để trấn an và kêu gọi đồng bào bình tỉnh, trước mọi tình huống xấu, để tránh nguy hiểm, thiệt hại tài sản và sinh mệnh. có thể sẽ xảy ra.

             Quận trưởng Hải Long được giao trách nhiệm, bảo vệ an ninh tỉnh lộ từ Phan Thiết tới Mũi Né, thông suốt 24/24, đồng thời bằng phương tiện sẳn có cùng phối hợp với Ty Giáo Dục và Thanh Niên, Tỉnh Ðoàn CB/XDNT.. thành lập các Khu Tạm Trú tại Trường Học, Chùa, Nhà Thờ, Nhà Lều Nước Mắm.. để chuẩn bị tiếp nhận đồng bào các nơi tới tạm trú. Quận Hàm Thuận giữ an ninh tuyệt đối trên QL1, từ Phan Thiết tới cây số 25 giáp ranh với Bình Tuy. Quận Thiện Giáo hành quân, mở rộng vòng đai, hạn chế VC pháo kích về thành phố, gây thêm chết chóc và hổn loạn khi có mặt đoàn di tản. Tiểu đoàn 229ĐP của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Tiến được điều động về bảo vệ TK và Tòa Hành Chánh Tỉnh.

            Con đường huyết mạch, nối liền Phan Thiết với Phi trường và nhất là Quân Y Viện Ðoàn Mạnh Hoạch, đã được BCH. Tiểu Khu bảo vệ chặt chẻ và cẩn mật, để sẳn sàng chuyển vận các nạn nhân đến chữa trị. Ty Y Tế và Bệnh Viện Phan Thiết trên đường Hải Thượng Lãn Ông  hoạt động 24/24, đồng thời cũng lập thêm Hai Toán Y Tế cứu cấp lưu động, thường trực tại Trường Tiểu Học Ðức Thắng và Nam Phan Thiết, trên Ðại lộ Trần Hưng Ðạo, để kịp thời cứu cấp bệnh nhân, khi không thể chuyển vận họ tới được bệnh viện hay quân y viện.

            Riêng Ty An Ninh QÐ , Ty Cảnh Sát QG và Phòng 2 TK sẳn sàng đối phó với Ðặc Công CS, bọn này đang trà trộn trong Ðoàn Di Tản, để kích động, khiêu khích, tạo hổn loạn kể cả đốt phá các cơ sở chính quyền , cây xăng, chợ búa. Riêng Xã Phan Thiết , phải theo dõi bọn trộm cướp, du đảng có tiền án để ngăn chận kịp thời, bảo vệ sinh mạng và tài sản đồng bào. Ngoài ta Tiểu Khu phải thiết lập ngay Một BCH nhẹ, đóng trên Lầu Ông Hoàng voí hệ thống truyền tin 24/24.

            Cuối cùng Tỉnh cũng đã dự trù kế hoạch dành cho giờ thứ 25, mở lại đường bay Dân sự Phan Thiết-Sài Gòn, ký hợp đồng thuê mướn các ghe tàu đánh cá tư nhân, để sẳn sàng chuyên chở cán bộ và gia đình, kể cả đồng bào khi cần thiết. Tiền thanh toán được rút từ ngân khoản Khai Hoang Lập Ấp, hiện đang tạm đình chỉ, vì tình hình chiến sự. Ngoài ra Phái Viên Hành Chánh Phú Quý cũng đã chuẩn bị sẳn sàng một đoàn ghe, khi cần thiết sẽ vào Phan Thiết công tác.

            Ngày 2-4-1975, Bộ Tư Lệnh/ Quân Ðoàn II lần lượt tan hàng tại Pleiku và Nha Trang., và cuối cùng bị xóa tên, vào lúc 1giờ 45 trưa cùng ngày, qua quyết định của Bộ Tổng Tham Mưu/QLVNCH, sáp nhập phần lãnh thổ còn lại vào QÐIII. Một đêm trôi qua và cuối cùng Ðoàn Di Tản cũng đã vào lãnh thổ Bình Thuận. Các Quận Tuy Phong, Hải Ninh nhờ không nằm trên QL1 nên ít bị thiệt hại vật chất. Ngược lại Quận Hòa Ða bị tàn phá nặng nề, từ Phan Rí Cửa, Phan Rí Thành,Chợ Lầu vào tới Lương Sơn nằm dưới chân núi Tà Dôn. Tiệm ăn, quán giải khát, cửa hàng tạp hóa đều bị cướp sạch.

            Tại Phan Thiết, sáng ngày 4-4-1975, hầu như mọi con đường trong thành phố đều tràn ngập các loại xe cộ của Ðoàn Di Tản, chẳng khác gì một con quái vật khổng lồ, dài mấy cây số. Hởi ôi công trình ba trăm hai chục năm đánh đổi bằng máu xương huyết lệ của không biết bao nhiêu thế hệ, chỉ có một đêm ngắn ngũi, đã bị đốt cháy ngôi chợ lớn (xây năm 1899), nhiều cây xăng, dập phá phố xá thương mại và nhà cửa của dân lành. Nhưng nhức nhối hơn hết, vẫn là cảnh đàn bà, con gái bị hãm hiếp.. ngay trước đám đông, mà không ai dám ngăn cản hay can thiệp, vì Tỉnh đã bỏ ngỏ nên không tìm đâu được bóng dáng của chính quyền.

            Buổi trưa, có hai hỏa tiển 130 ly, từ hướng Xuân Phong,Trinh Tường pháo vào trung tâm Phan Thiết., làm thương vong một số người. Chừng ấy đoàn di tản mới chịu rời thành phố nhưng lại rơi vào ổ phục kích của VC tại cây số 37 trên QL1. Số còn lại chạy thoát về tới Căn Cứ 10 thì bị Tiểu khu Bình Tuy giải giới hết.

            Ngay khi Phan Thiết được giải tỏa,Tỉnh Ðoàn CB/XDNT/BT, chỉ thị cho Ðoàn CB/XDNT từ Nông trường Sao Ðỏ về Trường Nam Tiểu Học, để tiếp nhận hơn 10.000 đồng bào chiến nạn, từ các tỉnh Cao nguyên và Duyên Hải Miền Trung chạy về. Sau đó, số đồng bào trên, đuợc chuyển tiếp bằng GMC, tới các Trại Tạm Cư, vừa được tỉnh thiết lập, dưới rặng dừa xanh, chạy dài từ Ðá Ông Ðịa, tới Trường Tiểu Học Rạng, thuộc Xã Thiện Khánh, Quận Hải Long. Ðoàn được tăng cường thêm 10 cán bộ địa phương của Phùng Bửu Hưng,phối hợp với Ty Giáo Dục và Ty Xã Hội dựng lều trại, lập danh sách cấp phát gạo, cá thịt hộp, chăn mền, quần áo cũ, thuốc men và các phương tiện, cho những gia đình muốn về Nam.

2-Những Ngày Cuối Cùng Của Tỉnh/Tiểu Khu Bình Thuận.

            Ngày 7-4-1975, sau khi Lâm Ðồng bỏ ngõ, quân Bắc Việt từ Di Linh về tấn công Chi Khu Thiện Giáo và Trung Ðội Nghĩa Quân,bảo vệ Cầu Ngựa tại Xóm Gọ,đồng thời pháo kích vào TD230 DPQ, để chận đường tiếp viện. Trận chiến thật ác liệt., VC mở nhiều đợt tấn công nhưng đều bị chận tại hàng rào phòng thủ,bởi mìn Claymore, lựu đạn và những khẩu đại liên ở các lô cốt. Trận này, có sự tham dự của hai Ðại Ðội thuộc TD230, do Ðại Uý Tập và Trung Úy Sanh chỉ huy, thêm vào yểm trợ của Pháo Bi nh và Trực Thăng võ trang. Sáng ngày 8-4-1975, VC chém vè, bỏ lại chiến trường 72 xác chết, bên ta có 14 tử thương và nhiều binh sĩ thương nặng.

            Ngày 12-4-1975, VC lại pháo 130 ly vào quận Thiện Giáo, đồng thời chiếm Xóm Ðộng Giá, Phú Long, làm gián đọan lưu thông  trên QL1. Ðại Uý Huỳnh Văn Quý, được chỉ định thay thế Thiếu Tá Phan Sang, làm Tiểu Ðoàn Trưởng TD 249/DPQ. Đại Uý Nguyễn Văn Hạnh, một sĩ quan kỳ cựu thuộc Liên Đoàn 4BĐQ thuyên chuyển về Phan Thiết, được chỉ định làm Tiểu Đoàn Phó. Tiểu Đoàn được tăng cường thêm ÐÐ283/DPQ biệt lập của Ðại Uý Nguyễn Văn Ba (Một sĩ quan thuộc binh chũng LLĐB), đã tái chiếm lại được Cầu Phú Long và thị trấn, sau những trận đụng độ ác liệt kinh hồn. Ngày 15-4-1975, VC từ khắp nơi, pháo kích dồn dập vào Chi khu Thiện Giáo. kể cả các xã trên QL1 như Long Phú, Hòa Vinh, Tuỳ Hòa đang do Tiểu Đoàn 275ĐP trách nhiệm.Do trên Tiểu Khu cho lệnh Chi Khu di tản khỏi Ma Lâm và điều động TD230 về phòng thủ Phan Thiết.

            Ngày 16-4-1975, phòng tuyến Phan Rang vỡ trước sự tấn công biển người của mấy sư đoàn và tăng pháo Bắc Việt. Các tướng lãnh Nguyễn Vĩnh Nghi, Phạm Ngọc Sang, Ðại Tá Nguyễn Thu Lương.. cũng như hầu hết các sĩ quan trong Bộ Chỉ Huy/Tiền Phương của QD3, đều sa vào tay giặc tại chiến trường, ngoại trừ Tư Lệnh SD2BB là tướng Trần văn Nhựt đuợc HQ đậu ngoài Vịnh Ninh Chữ cứu thoát. Cũng trong ngày, quân Bắc Việt ào ạt theo Quốc Lộ 1qua Cà Ná, tiến vào lãnh thổ Bình Thuận. Giờ thứ 25 đã tới, một số quân cán chính Tuy Phong được Tàu Hải Quân vớt tại vịnh Cà Ná.

             Chiều ngày 16-4-1975, tiền đồn Ðá Chẹt (đơn vị tuyến đầu của TK Bình-Thuận giáp ranh với Ninh-thuận) do Ðại Ðội 4/248 ÐP của Trung Uý Nguyễn Tấn Hợi, trước sự xuất hiện đoàn xe tăng của CS Bắc Việt, nên đã rút quân về hưởng biển Tuy Phong và được Duyên Ðoàn 27 (Phan Rang) cứu đem ra chiến hạm (HQ503) trong đêm tối.

             3 giờ đêm 16 rạng ngày 17 tháng 4, đoàn xe tăng trên đã lọt vào bãi mìn chống chiến xa tại Dốc Bà Chá (Xóm Nùng) trên QL1 gần Lương Sơn, do Ðại Ðội 1. Tiểu Ðoàn 212/Liên Ðoàn 925 ÐP/Bình Thuận của Ðại Uý Vĩnh. Theo tất cả các nhân chứng hiện còn sống sót tại Hoa Kỳ, có 7 chiến xa gồm T54 và PT76 bị cháy hay hư hại nặng. Sau đó VC kéo đi 4 chiếc, 3 xe cháy còn lại hiện nằm tại Lương Sơn (Bắc Bình, Bình Thuận).

            Bắt đầu đêm 17-4-1975, lửa khói đã mịt mù khắp thành phố Phan Thiết. Hải Quân 07 và Hải vận hạm Ninh Giang HQ 403, được lệnh tới bờ biển Phan Thiết yểm trợ hỏa lực và chờ chuyển vận binh sĩ về Nam khi nguy ngập. Lúc 1 giờ chiều ngày 18-4-1975, tăng pháo và đại quân Bắc Việt vào Phú Long, TD249 và DD283 DPQ kể cả Trung Ðoàn 6/SD2BB (từ Long Phú rút về Phước Thiện Xuân) đều rút ra hướng biển. Ác chiến đã xãy ra trên Liên Tỉnh Lộ 8 từ Tân Điền, Tân An, Trinh Tường giữa VC và các Tiểu Đoàn 202,229, Đại Đội trinh Sát Tỉnh..mãi tới 6 giờ 30 chiều cùng ngày, xe tăng VC , mới chỉ vào tới Cầu Trần Hưng Ðạo, sau khi vượt qua các chốt chận của TĐ275 và 229 ĐP trên QL1. Nhưng chúng  đã cố thủ tại các vị trị vừa chiếm được, mà không dám di chuyển tới các nơi khác, vì khắp Phan Thiết vẫn còn nhiều đơn vị cố thủ chờ lệnh .

            Sáu giờ chiều cùng ngày, Đại Tá Nghĩa và BCH Hành Quân Nhẹ tại Lầu Ông Hoàng rời vị trí di chuyển về gần cửa Thương Chánh chờ Tàu Hải Quân vớt. Trong đoàn có một  chiếc Thiết Vận Xa M-113 bên trong  chở nhiều thùng bạc do Bộ Tài Chánh vừa mới cấp cho Tỉnh vào trung tuần tháng 4, nên chưa kịp phát cho một số Ðơn Vị DPQ+NQ, CB/XDNT.(lương tháng 4-1975). Chiếc xe bọc sắt này đã chìm không  Bãi Thương Chánh, khi lội ra Chiến Hạm và phần lớn tiền bạc đều bị VC tich thu, kể cả số tiền còm của các ngư dân quanh vùng mò tìm được. Riêng chủ ghe đưa Đại Tá Nghĩa ra chiến hạm, bị tù và chết trong trại giam, hiện còn người em ruột vượt biên đang ở Bắc CA, là một nhân chứng, xác nhận. Nhờ Đại Tá Nghĩa thoát chết khi bị té xuống biển, nên Ông đã liên lạc được với Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh lúc đó là Tư Lệnh Bộ Chỉ Huy Vùng 2 Duyên Hải, mới có cuộc lui quân tại bến tàu Kim Hải.

             Suốt đêm 18-4-1975, các đơn vị DPQ vừa chống cự với VC, vừa rút lui bằng cách vượt sông Cà Ty  xuống Bến Tàu Kim Hải gần Phi trường. QYV. Ðoàn Mạnh Hoạnh, trong giờ phút nguy ngập, cũng chuyển vận được hết thương bệnh binh ra chiến hạm.

            Sáng ngày 19-4-1975, hai phản lực cơ A-37, được lệnh Quân Ðoàn III, thả bom đánh xập các cây cầu trên sông Mường Mán nhưng thả lạc mục tiêu, làm hư xập nhiều nhà cửa của đồng bào, trong khu phố Thương Mai, quanh các đường Gia Long, Nguyễn Tri Phương và Ngô Sĩ Liên. Tại Bến Tàu Kim Hải, các Chiến Hạm Hải Quân và Duyên Ðoàn 28 đã vớt được gần toàn bộ các Ðơn vị DPQ, BDQ,SD2BB và QYV. Doàn Mạnh Hoạch, chở vào Vũng Tàu tối 19-4-1975. Tại Phước Tuy, các đơn vị DPQ + NQ .Bình Thuận, tập họp lại thành Trung Ðoàn Bình Thuận

            Tại Phan Thiết  sau ngày 1-5-1975, VC đã sát hại một số lớn Quân, Cán, Chính để trả thù. Ngoài một số anh em bị hạ sát ngay khi kẹt lai, từ 19 tới 30/4/1975, đã có không biết bao nhiêu người khác đã gục ngã trước đạn súng và lòng thù hận sắt máu cũa giặc sau ngày 1-5-1975. Giờ đây,qua ba mươi tám năm trầm thống hờn hận, dù đã vật đổi sao dời nhưng những người còn sống,một thời là nạn nhân hay nhân chứng, gia đình hoặc đồng bào địa phương, làm sao có thể quên được những hình ảnh dã man tàn khốc, mà họ đã chứng kiến được, khi VC .BT đã vô lương vô nhân đạo, bắn giết những kẽ ngả ngựa sa cơ..

 

            Ðời lính là như vậy đó, cho nên đâu cần phải là sử gia, nhà văn trí thức,hay những kẻ một thời nắm quyền hành, mới ghi lại được những thảm kịch của chiến tranh. Cá nhân của người viết chỉ là một quạn nhạn sinh trưởng tại địa phương nhưng trong mười năm quân ngủ, đã xuôi ngược mọi nẻo đường đất nước, khắp các vùng chiến thuật và ở trong nhiều đơn vị. Và điều vinh hạnh nhất của đời người, là đã cùng với quân dân Bình Thuận, sống trọn vẹn trong 18 ngày cuối cùng của tháng tư đen 1975. Bởi vậy với tôi, tháng tư là một khoảng thời gian kỳ diệu, với những trang lịch sử đẳm máu treo lơ lửng trên đầu, luôn cho người lính già sống sót, môi cảm giác rất xa rất gần, như những người bạn cũ đã nằm xuống hôm qua, giờ chỉ biết nhớ mà không bao giờ gặp lại được.

 

            Ðó cũng là lời giải đáp thắc mắc mà tôi đã đeo đẳng suốt 38 năm qua, là đã không hề nuối tiếc cho bản thân mình.

 

            Bây giờ như mới hôm qua, những ngày tháng Tư lửa máu tại Phan Thiết, xin kính cẩn tưởng niệm những người đã mất. Bổng thấy tâm hồn như chết khựng, không phải vì men rượu, mà là nổi xót xa khi nghĩ tới những cơ cực của miền biển mặn, như đang úa vỡ ở cuối chân trời, trong đó có mẹ, có em, có quê hương gió cát, đang quằn quại trong thiên đàng Xã Nghĩa, không biết bao giờ mới ngoi lên được để làm người.

 

VIẾT QUA CÁC CUỘC PHỎNG VẤN:

-Cựu Đại Tá Tỉnh/Tiểu Khu Trưởng Bình Thuận Ngô Tấn Nghĩa
-Cựu Phó Tỉnh Trưởng Bình Thuận Phạm Ngọc Cửu
-Cựu XLTV Trưởng Ty Giáo Dục Thanh Niên Bình Thuận Phạm Quang Giai
-Cựu Trung Tâm Trưởng Trung Tâm Chuẩn Chi Bình Thuận Phan Bái
-Cựu Đại Uý, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 249ĐP Huỳnh Văn Quý
-Cựu Đại Uý Q.
- Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 202ĐP Huỳnh Văn Hoàng
-Cựu Đại Uý Trần Hữu Thân, ĐĐT/ĐĐ4/TĐ274/ĐP
-Cựu Đại Uý DD290ĐP Nguyễn Duy Sâm
-Cựu Đại Uý ĐĐT/ĐĐ948ĐP Mai Xuân Cúc
-Cựu Trung Uý Cao Hoài Sơn ĐĐT/ĐĐ4/TĐ229ĐP
-Cựu Trung Uý Nguyễn Tấn Hợi ĐĐT/ĐĐ4/TĐ248ĐP
-Cựu Đại Uý Lê Văn Tuân chi khu phó CK Thiện Giáo
-Lê Ngọc Lan Quận Đoàn Trưởng XDNT/BT
-Cựu Đại Uý Lê Phi Ô Tiểu Đoàn trưởng TĐ344ĐP/TK Bình Tuy
-Cựu Thiếu Tá Lê Văn Trung, Đại Uý Hàng Vinh Hiển, Nguyễn Văn Hạnh, Lê Bá Hùng..
-Cựu Trung Uý Phạm Ngọc Bảng, chỉ huy trưởng CSQG Tuy Phong.
-Bà Quả Phụ Trương Đức Nghi, phu nhân cố Thiếu Tá Trịnh Văn Bình TĐT/TĐ274ĐP
-Bà quả phụ Hồ Ngọc Trai phu nhân cố Đốc Sự Phạm Ngọc phành phó quận trưởng Hòa Đa
-Bà Phan Thị Sâm, nhân viên quận Hải Long
-Cựu Trung Uý Vũ Mạnh Minh, trưởng ban Truyền Tin Chi Khu Hàm Thuận

 

           

Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di

Tháng 4-2013

MƯỜNG GIANG      

 
Copyright © huongvebinhthuan.org
Website powered by VFCE CMS