1. Những năm đầu Thị xã Hà Đông được giải phóng
Thị xã Hà Đông khi mới được giải phóng, vùng nội thị có hai khu: Đông Cầu và Hà Cầu với 17 phố. Ngoại thị có 4 xã: Tân Triều, Cương Kiên, Văn Khê, Kiến Hưng gồm 16 thôn.
Tháng 2-1955, Ủy ban hành chính Liên khu III quyết định phân lại địa giới hành chính của Thị xã cho phù hợp với nhiệm vụ mới của cách mạng. 10 thôn của 4 xã: Tân Triều, Cương Kiên, Văn Khê, Kiến Hưng được trả về các huyện Thanh Trì, Hoài Đức, Thanh Oai. Ngoại thị còn 6 thôn lập thành 3 xã: Văn Mỗ, gồm 2 thôn Văn Quán và Mỗ Lao; xã Hà Cầu có 2 thôn Hà Trì và Cầu Đơ; các thôn Vạn Phúc, Ngọc Trục lập thành xã Vạn Ngọc. Năm 1961, thôn Ngọc Trục cắt chuyển về Hà Nội, Vạn Phúc trở thành một xã. Năm 1970, hai xã Kiến Hưng (Thanh Oai), Văn Khê (Hoài Đức) được sáp nhập về Thị xã. Từ đó đến năm 1994, địa bàn Thị xã cơ bản ổn định gồm 3 phường: Yết Kiêu, Quang Trung, Nguyễn Trãi, 5 xã: Hà Cầu, Vạn Phúc, Văn Mỗ, Kiến Hưng, Văn Khê với diện tích 14,7 km2 , dân số có 51.200 người.
Trong thời gian đầu sau khi được giải phóng, Thị xã Hà Đông phải đối mặt với vô vàn khó khăn, hạ tầng cơ sở vật chất bị phá hủy hầu như toàn bộ, sản xuất nông nghiệp đình trệ. Tiểu thủ công nghiệp tuy có truyền thống lâu đời với nhiều nghề, nhiều sản phẩm nổi tiếng, nhưng trong chiến tranh bị hàng ngoại cạnh tranh, kìm hãm, thiếu nguyên vật liệu, không có thị trường tiêu thụ nên không phát triển. Thương nghiệp chủ yếu là buôn bán nhỏ...
Về mặt xã hội: phần lớn người dân bị mù chữ, hệ thống y tế thiếu cả về cơ sở vật chất, kỹ thuật lẫn đội ngũ cán bộ. Bên cạnh đó, giặc vẫn thực hiện âm mưu lôi kéo, cưỡng bức dân di cư vào Nam theo các thế lực đế quốc, tháng 3/1955, lợi dụng việc thiếu đói vào cuối tháng 2 và việc buôn bán ế ẩm, địch đã xúi giục được 20 gia đình gồm 80 người di cư vào Nam.
Về mặt tổ chức: cán bộ, lực lượng quần chúng cốt cán ở Thị xã còn rất mỏng. Nội thị và xã Văn Mỗ chưa có chi bộ. Toàn Đảng bộ chỉ có 10 đảng viên. Ban cán sự và chính quyền từ thị đến xã chưa được bổ sung kiện toàn lại bắt tay vào nhiệm vụ hoàn toàn mới mẻ, chưa có kinh nghiệm xây dựng và quản lý kinh tế xã hội.
Mặc dù đứng trước những khó khăn như trên, nhưng được Tỉnh ủy chỉ đạo và phổ biến kinh nghiệm, Đảng bộ Thị xã đã kịp thời tổ chức lực lượng cán bộ, bộ đội đến từng thôn xã, đường phố để vạch trần âm mưu của địch, tăng cường tuyên truyền đến nhân dân không di cư vào Nam và giành được thắng lợi. Đồng thời, đầu tháng 12/1954, ban cán sự triển khai kế hoạch khôi phục kinh tế, phát triển văn hóa, hàn gắn vết thương chiến tranh.
Chỉ trong một thời gian ngắn, do làm tốt công tác tư tưởng và chính quyền có một số biện pháp hỗ trợ nên diện tích cấy mùa năm 1955 đạt 1.278 mẫu, tăng hơn vụ mùa năm 1954 là 186 mẫu. Các hoạt động văn hóa, y tế, thể dục thể thao, giữ gìn an ninh trật tự và các hoạt động xã hội khác được chú trọng phát triển. Tháng 10 - 1955, Thị xã mở được hai khóa bình dân với 28 lớp có 607 học viên, phần lớn các em có độ tuổi từ 9 đến 12 tuổi. Cuối tháng 4-1955, Ủy ban hành chính thị xã phát động phong trào giữ vệ sinh chung trong toàn dân. Mỗi thôn, mỗi phố đều thành lập một ban vận động giữ vệ sinh nhằm đôn đốc, kiểm tra mọi người thực hiện những quy định được đề ra, nhất là giữ vệ sinh ở khu vực chợ. Ty Y tế giúp Thị xã mở lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho 12 cán bộ làm công tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân. Mặt khác, Ủy ban hành chính thị xã chỉ đạo các cơ sở đẩy mạnh phong trào vui khỏe, thể dục thể thao, thành lập các tổ: văn nghệ, đọc báo, nuôi dạy trẻ, bảo vệ hài nhi sản phụ, đội bóng chuyền, bóng đá, ban thể dục thiếu nhi...
Tuy mới được hình thành nhưng kinh tế Nhà nước từng bước vươn lên nắm vai trò chủ đạo, Ủy ban hành chính thị xã chỉ đạo nhiệm vụ khôi phục phát triển kinh tế bằng các pháp lệnh về thuế, bằng việc nắm vật tư, nguyên liệu chủ yếu, bao tiêu sản phẩm, đồng thời huy động sức lao động tập trung làm thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp.
Do có chính sách đúng, phù hợp, động viên được các thành phần kinh tế nên đã khơi dậy tiềm năng lao động to lớn của hàng nghìn người ở nội và ngoại thị tham gia, thúc đẩy công cuộc khôi phục kinh tế trong Thị xã giành thắng lợi. Sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, giao thông vận tải, bưu điện, văn hóa - xã hội đều được khôi phục và phát triển. Về nông nghiệp, đã tăng cả về sản lượng và diện tích. Thương nghiệp đã có bước phát triển mới. Cảnh quan thị xã ngày càng thay đổi. Quần chúng nhân dân phấn khởi tích cực tham gia sinh hoạt trong các đoàn thể quần chúng. Khối đoàn kết toàn dân được củng cố. Sự lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng bộ ngày càng có kinh nghiệm về mọi mặt. Đội ngũ cán bộ, đảng viên được rèn luyện thử thách và trưởng thành thích ứng với sự nghiệp cách mạng mới của Đảng.
Cuối năm 1958, Đại hội Đảng bộ Thị xã lần thứ nhất khai mạc. Đại hội đánh giá những thắng lợi đạt được trong thời kỳ cải cách ruộng đất, khôi phục phát triển kinh tế xã hội và củng cố xây dựng tổ chức. Đại hội nhấn mạnh công tác tư tưởng, đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục để đảng viên và nhân dân nhận thức sâu sắc hơn nữa về hai con đường: tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Đại hội bầu Ban Chấp hành mới gồm 9 ủy viên, do đồng chí Nguyễn Văn Kế làm Bí thư Thị ủy, đồng thời cử đoàn đại biểu có 10 đồng chí tham dự hội nghị đại biểu đảng bộ tỉnh Hà Đông (1-1959).
Trong 2 năm 1959-1960, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, Đảng bộ và nhân dân thị xã rất chú trọng củng cố, xây dựng hệ thống chính trị. Đây là vấn đề then chốt giúp Đảng bộ lãnh đạo và thúc đẩy công cuộc cải tạo và phát triển kinh tế xã hội trong buổi đầu bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.
2. Thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965)
Sau kế hoạch 3 năm (1958-1960), thị xã Hà Đông căn bản hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp, thủ công nghiệp, tiểu thương. Quan hệ sản xuất mới được xác lập. Phong trào hợp tác hóa phát triển nhanh chóng, song nhìn chung, đầu năm 1961, các hợp tác xã còn ở bậc thấp, quy mô nhỏ, cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn, trình độ hợp tác giản đơn, các hợp tác xã chưa phát huy tiềm năng đất đai, năng suất lao động, năng suất cây trồng chưa cao.
Đại hội Đại biểu lần thứ III được diễn ra từ ngày 8 đến 13-12-1961 đã xác định phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội của Thị xã Hà Đông là: "Ra sức củng cố hợp tác xã nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp thật vững chắc. Đưa quy mô hợp các hợp tác xã nông nghiệp thành hợp tác xã toàn thôn, chuyển hợp tác xã bậc thấp lên bậc cao. Tổ chức một số hợp tác xã thủ công nghiệp thành hợp tác xã liên hợp. Tích cực xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho hợp tác xã để thúc đẩy sản xuất phát triển. Trên cơ sở đó từng bước cải thiện đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ". Đại hội đã bầu 11 đồng chí vào Ban Chấp hành Đảng bộ, trong đó có 9 ủy viên chính thức và 2 ủy viên dự khuyết, do đồng chí Nguyễn Quang Hỏa làm Bí thư.
Trong 4 năm (1961-1964) nhân dân Thị xã đã đóng góp 165.087 ngày công làm thủy lợi. Mỗi năm nhân dân Thị xã đào đắp được hàng chục ngàn mét khối đất. Từ cuối năm 1963 hầu hết các hợp tác xã đã thành lập đội chuyên làm thủy lợi. Cuối năm 1964 đầu năm 1965, đồng ruộng được cải tạo, kiến thiết theo quy hoạch. Từ năm 1964, hợp tác xã Hà Trì là một trong 5 điểm được Tỉnh thí điểm trang bị cơ khí nhỏ phục vụ nông nghiệp. Cuối năm 1964, đồng ruộng Thị xã đã có điều kiện thuận lợi để thâm canh, tăng vụ và mở rộng diện tích gieo trồng. Từng bước, Thị xã không những tự giải quyết được phần quan trọng lương thực, thực phẩm mà còn đóng góp một phần nghĩa vụ đối với Nhà nước. Chỉ tính khu vực ngoại thị, năm 1961 Nhà nước còn phải cung cấp 185.767kg gạo, đến năm 1964 chỉ phải cấp 10.534kg. Cũng trong năm 1964, nhân dân Thị xã đã bán cho Nhà nước được 1.539 con lợn.
Về giáo dục, năm học 1964-1965, năm học cuối của kế hoạch 5 năm, Thị xã đã thực hiện phổ cập cấp I. Tính chung cả ngành học phổ thông và bổ túc văn hóa, cứ 2 người dân của Thị xã có 1 người đi học.
Những năm 1961-1965, Thị xã thường xuyên tổ chức các cuộc mit tinh, biểu tình chống Mỹ, đồng thời biến căm thù đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai thành hành động thiết thực,các cơ sở của Thị xã nơi nào cũng có phong trào thi đua đẩy mạnh sản xuất, công tác, học tập...vì đồng bào miền Nam ruột thịt. Các công trình " kênh nổi làng Văn Quán, con mương làng Yên Phúc", hưởng ứng "tuần lễ vì đồng bào miền Nam ruột thịt", "vì nhân dân Cần Thơ", nhân dân Thị xã hăng hái lao động, góp ngày công ủng hộ đồng bào miền Nam, thu được 7000 đồng và tiết kiệm được 20 tấn thóc bán cho Nhà nước. Đáp lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh "Mỗi người làm việc bằng hai để đền đáp lại cho đồng bào miền Nam ruột thịt', các hoạt động thi đua đẩy mạnh sản xuất, cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật được đẩy mạnh, nhiều tổ lao động, xã viên của hợp tác xã Đông Hồng Tiến, Đoàn Kết ....năng suất lao động đạt tới 250% mức kế hoạch.
Công tác tuyển quân thu được những kết quả đáng khích lệ, trong các đợt khám tuyển và giao quân hàng năm (1961-1965), Thị xã đều tuyển chọn và giao quân vượt mức kế hoạch.
Song song với xây dựng, củng cố lực lượng công an, Thị xã rất chú trọng xây dựng mạng lưới an ninh nhân dân. Cuối năm 1962, khắp các khu nội, ngoại thị, hợp tác xã, cơ quan, xí nghiệp đều đã kiện toàn Ban bảo vệ.
Đại hội Đại biểu Đảng bộ lần thứ V họp từ ngày 9 đến 14-10-1964 đã bầu Ban Chấp hành gồm có 13 ủy viên chính thức và 2 ủy viên dự khuyết. Đồng chí Nguyễn Quang Hỏa tiếp tục được bầu làm Bí thư.
Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965) là chặng đường ngắn trong quá trình lịch sử, song đó là những năm tháng Đảng bộ Thị xã lãnh đạo nhân dân đoàn kết, đấu tranh vượt qua khó khăn, thử thách thời kỳ mới, cùng nhân dân cả nước thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược và giành thắng lợi bước đầu. Quán triệt đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Đảng bộ và nhân dân Thị xã tiếp tục đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật ban đầu của chủ nghĩa xã hội và bắt đầu phát huy hiệu quả.
3. Xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội, kháng chiến chống Mỹ cứu nước
Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1965-1975) là một trong những thời kỳ lịch sử hào hùng sôi động, vẻ vang nhất của Đảng bộ và nhân dân Thị xã Hà Đông. Cùng với cả miền Bắc, Đảng bộ và nhân dân Thị xã Hà Đông vừa tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ, chi viện sức người, sức của cao nhất cho tiền tuyến lớn miền Nam.
Thanh niên Vạn Phúc hăng hái lên đường bảo vệ Tổ quốc
Công tác tuyển quân chi viện chiến trường đã hoàn thành xuất sắc kế hoạch trên giao vượt 4,3% với chất lượng tốt, đúng thời gian, đúng chính sách. Ngoài ra còn xây dựng được lực lượng dự bị tạo điều kiện thuận lợi cho kỳ tuyển quân những năm sau. Lực lượng vũ trang địa phương đã sát cánh, phối hợp chiến đấu cùng bộ đội Tỉnh, bộ đội chủ lực bảo vệ tốt những mục tiêu quan trọng, làm thất bại cơ bản âm mưu đánh phá Thị xã của không lực Mỹ, bảo vệ được mạch máu giao thông qua địa bàn Thị xã, góp phần bảo vệ Thủ đô Hà Nội. Bằng tinh thần và kỹ thuật chiến đấu của mình, dân quân tự vệ Thị xã Hà Đông đã lập công xuất sắc, bắn rơi 3 máy bay hiện đại của giặc Mỹ.
Về nông nghiệp, năm 1974, năng suất lúa bình quân toàn Thị xã đã vượt qua mức 7 tấn, đạt 7,446 tấn/ha. Ổn định được vùng rau chuyên canh của hợp tác xã Cầu Đơ với trên 30 ha. Chăn nuôi cũng có bước phát triển, hoàn thành tốt nghĩa vụ đóng góp lương thực, thực phẩm cho Nhà nước, đời sống xã viên được giữ vững, có phần cải thiện, đã nâng mức ăn bình quân một khẩu đạt 21-27 kg/tháng.
Tiểu thủ công nghiệp cũng đạt được những kết quả đáng phấn khởi, nổi bật là tháo gỡ khó khăn, phát huy tài năng, khối óc, bàn tay của một địa bàn giàu truyền thống ngành nghề thủ công, bước đầu chú ý xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật.
Đi đôi với phát triển kinh tế, việc xây dựng, quản lý đô thị Thị xã được quan tâm, đầu tư đúng mức. Đã tiến hành nâng cấp đường nội thị, sửa chữa đắp mới hàng nghìn mét đường nông thôn, giúp cho việc vận chuyển của xe cơ giới thuận lợi, phục vụ tích cực cho sản xuất nông nghiệp phát triển.
Nhờ có đường lối, sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, sự lãnh đạo chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy Hà Tây; Đảng bộ, quân dân thị xã Hà Đông đoàn kết, tin tưởng nâng cao trách nhiệm của mình trước vận mệnh của dân tộc, của chủ nghĩa xã hội, hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống vất chất và tinh thần của nhân dân, chuẩn bị tạo tiền đề cho giai đoạn phát triển mới trong điều kiện đất nước hòa bình, thống nhất./.